Các Mô Hình Nến Cơ Bản
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Các Mô Hình Nến Cơ Bản
LỜI GIỚI THIỆU
Bạn có muốn học một hệ thống kỹ thuật đó được chắt lọc qua hàng trăm năm sử dụng, nhưng gần như ít được phổ biến? Một hệ thống khá linh hoạt, có thể kết hợp với bất kỳ công cụ kỹ thuật nào của phương Tây? Một hệ thống mang đến cho bạn sự thích thú khi sử dụng như là sức mạnh của nó? Nếu muốn, BIỂU ĐỒ KỸ THUẬT HÌNH NẾN NHẬT BẢN là thứ bạn cần. Bạn có thể thấy được giá trị của nó trong việc cung cấp cho bạn nền tảng của phân tích kỹ thuật.
Sử dụng biểu đồ hình nến Nhật Bản sẽ giúp bạn hoàn thiện khả năng phân tích thị trường. Tập trung chính vào thị trường Mỹ, nhưng những cụng cụ và kỹ thuật có thể áp dụng cho bất kỳ thị trường nào.
Biểu đồ hình nến được dùng cho việc theo dõi, suy đoán và bảo vệ trong hoạt động đầu tư. Nó cũng có thể được dùng cho hàng hóa giao sau, hợp đồng quyền chọn hay bất cứ đâu phân tích kỹ thuật được áp dụng.
Không cần phải băn khoăn, lo lắng nếu bạn chưa hề nhìn thấy biểu đồ hình nến. Những kiến thức này là mới với bạn. Thực ra, nó cũng là mới đối với nhiều người Mỹ và châu Âu.
Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật dày dạn, bạn sẽ khám phá ra cách kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật khác của bạn để có thể tạo ra một sức mạnh tổng hợp của kỹ thuật. Những phần kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật phương Tây sẽ làm cho bạn thích thú.
Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật nghiệp dư, bạn sẽ thấy biểu đồ hình nến hiệu quả như thế nào khi nó là phương pháp phân tích biểu đồ độc lập.
MỘT SỐ THÔNG TIN CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU VẤN ĐỀ
Một số bạn có thể có đã nghe đến biểu đồ hình nến. Nhiều người thì chưa. Tháng m­ười hai năm 1989, Tôi (Steve Nison) viết một bài báo giới thiệu về biểu đồ hình nến, ngay lập tức thu hút được sự quan tâm. Điều này hóa ra tôi là một trong số ít những người Mỹ có hiểu biết về kỹ thuật có từ hàng trăm năm của người Nhật. Tôi viết tiếp những bài báo, nhiều buổi trình bày, dạy học và được phỏng vấn trên truyền hình và báo chí khắp đất nước. Đầu năm 1990, Tôi viết một bài giới thiệu ngắn cho luận án Nhà kỹ thuật Thị trường của tôi về những biểu đồ hình nến. Nó chứa đựng những tài liệu rất cơ bản để giới thiệu, vì nó là thông tin chứa đựng trong những biểu đồ hình nến ở Mỹ. Tài liệu này đã được nhiều người ưa thích. Trong vòng vài tháng, Merrill Lynch, nhà xuất bản nhận được hơn 10.000 yêu cầu.
TÔI ĐÃ HỌC BIỂU ĐỒ HÌNH NẾN NHƯ THẾ NÀO?
"Tại sao", chính tôi đã thường được hỏi "Có một hệ thống kiến thức đã lâu như­ vậy mà gần như­ không được biết đến ở phương Tây?". Người Nhật đã cố gắng giữ bí mật? Nó là sự thiếu thông tin ở Mỹ? Tôi không biết câu trả lời, nh­ưng phải mất vài năm nghiên cứu để tổng hợp tất cả lại với nhau. Tôi đã gặp khá nhiều may mắn. Có lẽ sự kiên nhẫn và khả năng cầu may của tôi là sự kết hợp cần thiết những ng­ười khác không có.
Năm 1987, tôi quen biết một nhà môi giới ngư­ời Nhật. Một ngày kia, trong khi tôi và cô ấy đang ở trong văn phòng, cô ấy đang xem một trong số những cuốn sách về biểu đồ bằng tiếng Nhật của cô ấy. Cô ấy kêu lên, "Nhìn này, một cửa sổ (a window)". Tôi hỏi cô ấy đang nói về cái gì. Cô ấy nói rằng cửa sổ (a window) cũng tương tự như một khoảng trống (a gap) trong kỹ thuật của phư­ơng Tây. Cô ấy tiếp tục giải thích, khi những nhà kỹ thuật phư­ơng Tây sử dụng thành ngữ "điền vào chỗ trống" thì người Nhật nói "đóng cửa sổ". Sau đó cô ấy còn sử dụng các thành ngữ khác. Tôi đã sử dụng mấy năm sau để khám phá, nghiên cứu và phân tích bất cứ cái gì tôi có thể bởi những biểu đồ hình nến.
Điều đó thật không dễ dàng. Hiếm có tài liệu tiếng Anh về chủ đề này. Kiến thức ban đầu của tôi với sự giúp đỡ của nhà môi giới người Nhật và thông qua việc tôi tự vẽ và phân tích những biểu đồ hình nến.
Vài tháng sau, tôi mư­ợn được một cuốn sách, nó đã ảnh hư­ởng rất lớn đến cuộc sống chuyên nghiệp của tôi. Giám đốc văn phòng MTA, Shelley Lebeck, đưa cho tôi một cuốn sách về Biểu đồ hình nến của Seiki Shimizu và dịch bởi Greg Nicholson (Xuất bản bởi Tokyo Futures Trading Publishing Co.) được mang về từ Nhật. Nó chứa đựng khoảng 70 trang về những biểu đồ hình nến và đã đ­ược dịch sang tiếng Anh. Được đọc nó giống như tìm thấy một ốc đảo trong một hoang mạc.
Tôi nhận ra rằng cuốn sách mang lại rất nhiều kiến thức. Phải mất nhiều thời gian và công sức để nắm được nội dung của nó. Tôi cũng thấy rằng, rất khó khăn để dịch một đề tài chuyên dụng như­ vậy từ tiếng Nhật sang tiếng Anh.
Tôi mang cuốn sách bên mình hàng tháng trời, đọc đi đọc lại, ghi chú, áp dụng những kiến thức cho những biểu đồ hình nến được tôi vẽ bằng tay. Tôi nghiền ngẫm và nhồi nhét những khái niệm và thuật ngữ mới. Tôi cũng may mắn có được sự giúp đỡ của tác giả, Seiki Shimizu, người đã trả lời nhiều câu hỏi của tôi. Mặc dù Shimizu không nói tiếng Anh, nhưng ngư­ời dịch cuốn sách, Greg Nicholson, đã giúp tôi rất nhiều. Cuốn sách đã mang lại nền tảng cho sự nghiên cứu tiếp phần còn lại của tôi về những hình nến. Không có cuốn sách đó, cuốn sách này cũng không thể có.
Để tiếp tục phát triển khả năng trong việc nghiên cứu biểu đồ kỹ thuật hình nến, tôi tìm kiếm những người Nhật đang hành nghề, có thời gian và đam mê, để nói với tôi về chủ đề này. Tôi đã gặp một thư­ơng gia người Nhật, Morihiko Goto, ngư­ời đã sử dụng những biểu đồ hình nến và sẵn sàng chia sẻ thời gian và sự am hiểu quý giá của anh ấy. Anh ta nói với tôi rằng gia đình của anh ấy đã sử dụng những biểu đồ hình nến qua nhiều thế hệ. Chúng tôi dành nhiều thời gian bàn luận về lịch sử và cách sử dụng của những biểu đồ hình nến. Anh ta đúng là một kho kiến thức vô giá.
Tôi cũng có một số l­ượng lớn tài liệu đư­ợc dịch. Việc thu đư­ợc thông tin hình nến tiếng Nhật nguyên bản là một vấn đề. Việc dịch nó là của người khác. Có khoảng 400 người dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh ở Mỹ. Tôi phải tìm được một ngư­ời phiên dịch không thể chỉ dịch thông thư­ờng, mà phải có sự hiểu biết đặc biệt sâu rộng về phân tích kỹ thuật. Về điểm này tôi may mắn có sự giúp đỡ của những dịch vụ ngôn ngữ ở New York. Giám đốc, Richard Solberg, mang lại sự giúp đỡ rất cần thiết. Anh ta là một người hiếm có. Anh ta là một ngư­ời Mỹ trôi chảy tiếng Nhật, có hiểu biết và sử dụng phân tích kỹ thuật.
Trư­ớc khi những bài báo giới thiệu về biểu đồ hình nến của tôi xuất hiện cuối năm 1989, chỉ có vài dịch vụ cung cấp biểu đồ hình nến ở Mỹ. Bây giờ, đã có quá nhiều những dịch vụ cung cấp những biểu đồ này. Chúng bao gồm:
Bloomberg L.P. (New York, NY);
Commodity Trend Service Charts ( North Palm Beach, FL);
CompuTrac TM (New Orleans, LA);
CQG ( Glenwood Springs, CO);
Ensign Software ( Idaho Falls, ID);
Futuresource TM (Lombard, IL);
Knight Ridder - Commodity Perspective (Chicago, L).
Khi bạn đọc cuốn sách này, có lẽ sẽ có thêm những dịch vụ cung cấp những biểu đồ hình nến. Tính phổ biến của những dịch vụ này ngày một gia tăng mạnh mẽ. Sự thừa thãi của những dịch vụ cung cấp những biểu đồ hình nến làm chứng cho tính phổ biến và sự hữu dụng của nó.
VÌ SAO BIỂU ĐỒ KỸ THUẬT HÌNH NẾN ĐÃ THU HÚT ĐƯỢC SỰ CHÚ Ý CỦA NHỮNG THƯ­ƠNG GIA VÀ NHỮNG NHÀ ĐẦU TƯ­ KHẮP THẾ GIỚI?
Tôi đã nhận được những cuộc gọi và fax từ khắp thế giới đề nghị được biết thêm nhiều thông tin về biểu đồ kỹ thuật hình nến. Tại sao lại có sự quan tâm rộng khắp đó? Có rất nhiều lý do và sau đây là một vài trong số đó:
1. Tính linh hoạt của biểu đồ hình nến. Người sử dụng có thể bao gồm từ những người lần đầu tiên dùng theo phong trào, cho đến những người dày dạn kinh nghiệm. Đó là bởi vì biểu đồ hình nến có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp kỹ thuật phân tích khác. Lợi thế chủ yếu của biểu đồ kỹ thuật hình nến được cho là do những kỹ thuật này có thể được sử dụng để thêm vào, chứ không phải để thay thế các công cụ kỹ thuật khác.
2. Biểu đồ kỹ thuật hình nến được sử dụng cho hầu hết những mảng chưa bao giờ được sử dụng ở Mỹ. Cho đến nay, kỹ thuật này gần như được hưởng truyền thống đã được phát triển qua hàng trăm năm tìm tòi và thử nghiệm của vùng Viễn Đông.
3. Hồi đó có những thuật ngữ chứa đựng hình ảnh được sử dụng để mô tả các mẫu hình. “Tội nhân” diễn tả điều gì có khiến bạn quan tâm? Đó chỉ là một ví dụ cho thấy thuật ngữ Nhật Bản làm tăng thêm sự hứng thú của biểu đồ hình nến, một khi bạn đã trải qua, bạn sẽ không thể không sử dụng nó.
4. Người Nhật gần như chắc chắn biết tất cả các phương pháp phân tích kỹ thuật của phương Tây, nhưng người phương Tây hầu như không biết gì về kỹ thuật của người Nhật. Người Nhật sử dụng phối hợp biểu đồ kỹ thuật hình nến cùng với các công cụ kỹ thuật của phương Tây. Tại sao chúng ta không làm như họ?
5. Dữ liệu cần thiết để tạo ra biểu đồ hình nến cũng tương tự như biểu đồ dạng then chắn (đó là giá mở, cao, thấp, đóng). Điều này rất có ý nghĩa khi nó chắc chắn rằng bất cứ kỹ thuật phân tích nào sử dụng được với biểu đồ dạng then chắn (như các đường trung bình, xu hướng, sóng Elliott, sự hiệu chỉnh, v.v …) đều có thể áp dụng với biểu đồ hình nến. Nhưng đây mới là điểm mấu chốt. Biểu đồ hình nến có thể mang lại những dấu hiệu mà biểu đồ dạng then chắn không có. Bên cạnh đó, có vài mẫu hình có thể cho phép bạn chiếm ưu thế đối với những người sử dụng biểu đồ kỹ thuật truyền thống của phương Tây. Sử dụng biểu đồ hình nến thay vì biểu đồ dạng then chắn bạn có khả năng sử dụng tất cả kỹ năng phân tích như khi bạn dùng với dạng then chắn, nhưng biểu đồ hình nến mang lại cho bạn một khả năng phân tích rộng lớn hơn nhiều.
MỘT VÀI HẠN CHẾ
Cũng như tất cả những phương pháp sử dụng biểu đồ, những mẫu hình biểu đồ hình nến tùy thuộc vào sự giải thích của ngư­ời sử dụng. Điều này có thể coi là một hạn chế. Nếu bạn có nhiều kinh nghiệm với biểu đồ hình nến trong lĩnh vực của mình, bạn sẽ thấy những mẫu hình, và những sự biến đổi nào của những mẫu hình này, hoạt động tốt. Trong trường hợp này, chủ quan có thể không phải là nguy hiểm. Với những kinh nghiệm bạn có đư­ợc qua kỹ thuật hình nến, bạn sẽ khám phá ra những sự kết hợp nào hoạt động tốt trong thị trư­ờng của bạn. Điều này có thể mang lại cho bạn một lợi thế đối với những người đã không dành thời gian và sức lực trong việc theo dõi sát sao thị trường như­ bạn.
Như sẽ đề cập về sau, việc vẽ cây nến đòi hỏi phải có giá đóng. Bởi vậy, bạn có thể phải đợi kết thúc để có một dấu hiệu buôn bán có giá trị.
Thỉnh thoảng, tôi có thể sử dụng những biểu đồ từng giờ để có được một dấu hiệu mua bán hơn là đợi đến khi đóng cửa của ngày đó. Ví dụ, có một mẫu hình tăng giá tiềm năng trong biểu đồ ngày. Lúc đó, tôi nên đợi giá đóng cửa để hoàn thành mẫu hình. Nếu biểu đồ hàng giờ cũng cho thấy một cái chỉ báo tăng giá trong ngày ấy, thì tôi có thể khuyến cáo mua (nếu xu hư­ớng là tăng) thậm chí tr­ước khi đóng cửa.
Những biểu đồ hình nến cung cấp nhiều dấu hiệu mua bán rất hữu ích. Tuy nhiên, chúng không cung cấp những mục tiêu giá. Có những ph­ương pháp khác để dự báo những đích giá đó (như­ những ngưỡng hỗ trợ hoặc chống cự trư­ớc đó, sự hiệu chỉnh, v.v …). Một số ngư­ời thực hiện việc mua bán dựa vào các dấu hiệu, và giữ thương vụ đó cho đến khi có sự xuất hiện mẫu hình khác. Những mẫu hình luôn luôn cần đư­ợc nhìn trong bối cảnh khi nó xuất hiện và trong quan hệ với những dấu hiệu kỹ thuật khác.
Với hàng trăm biểu đồ trong suốt cuốn sách này, đừng ngạc nhiên nếu bạn thấy có những mẫu mà tôi bỏ qua trong những biểu đồ. Đó cũng là những ví dụ về những mẫu hình, đôi khi không hoạt động. Những hình nến sẽ không cung cấp một công cụ thương mại chính xác tuyệt đối. Tuy nhiên chúng bổ sung thêm vào bảng mẫu kỹ thuật của bạn.
Những biểu đồ hình nến cho phép bạn sử dụng những phương pháp kỹ thuật như khi bạn sử dụng với biểu đồ then chắn. Như­ng những biểu đồ hình nến cho bạn những dấu hiệu mà biểu đồ then chắn không thể. Vậy tại sao phảI sử dụng biểu đồ then chắn? Trong tư­ơng lai gần, biểu đồ hình nến có thể trở nên phổ biến như­ biểu đồ then chắn. Thật ra, tôi đã đưa ra dự đoán rằng khi ngày càng có nhiều nhà kỹ thuật cảm thấy thoải mái, thích nghi với những biểu đồ hình nến, họ sẽ không còn sử dụng những biểu đồ then chắn. Tôi đã sử dụng một kỹ thuật phân tích gần 20 năm. Và bây giờ, sau khi khám phá tất cả các lợi ích của nó, tôi chỉ sử dụng những biểu đồ hình nến. Tôi vẫn sử dụng tất cả các công cụ kỹ thuật truyền thống của phương Tây, như­ng những biểu đồ hình nến đã mang lại cho tôi một cái nhìn tổng thể về những thị trư­ờng.
Tr­ước khi đi sâu vào những biểu đồ hình nến, tôi sẽ nói ngắn gọn về sự quan trọng của phân tích kỹ thuật. Đối với những người chưa sử dụng phân tích kỹ thuật, đoạn tiếp theo nhấn mạnh tới tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật. Với những người đã hiểu biết về những lợi ích của phân tích kỹ thuật, có thể bỏ qua đoạn này.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
Tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật gồm năm khía cạnh dưới đây.
Đầu tiên, trong khi sự phân tích cơ bản có thể cung cấp quy mô cung cầu, những tỷ lệ giá/lợi nhuận, những thống kê kinh tế học, v.v…, không có thành phần tâm lý học kéo theo trong sự phân tích đó. Vậy mà nhiều thị trường, đôi khi bị ảnh hưởng, thậm chí nặng nề, bởi sự đa cảm. John Manyard Keynes phát biểu, "Không có gì bất hạnh như­ một chính sách đầu t­ư hợp lý trong một thế giới vô lý". Phân tích kỹ thuật cung cấp cơ chế duy nhất để đo "sự vô lý" hiện diện trong mọi thị trường.
Thứ hai, những kỹ thuật cũng là một thành phần quan trọng trong việc khép mình vào kỷ luật giao dịch. Kỷ luật trong giao dịch giúp những thương gia làm dịu bớt những căng thẳng. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy giao dịch trên giấy (tập mua bán bằng cách viết ra giấy). Rồi thử buôn bán với những quĩ của chính mình. Bạn sẽ sớm khám phá sự căng thẳng, nghi ngờ, băn khoăn trong cách mà bạn mua bán và nhìn nhận thị tr­ường. Những kỹ thuật cũng mang lại tính khách quan trong việc đưa ra các quyết định. Chúng cung cấp một cơ chế để thiết lập những điểm vào/ra, để đặt những tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận, hoặc những mức dừng/thoát. Sử dụng chúng sẽ giúp bạn phát triển kỹ năng quản lý rủi ro và lợi nhuận trong giao dịch.
Thứ ba, đi theo các nhà phân tích kỹ thuật cũng khá quan trọng dù bạn không hoàn toàn tin tư­ởng vào sự sử dụng của họ. Bởi vì đôi khi kỹ thuật là lý do chính cho một sự chuyển động của thị trư­ờng.
Thứ tư, lý thuyết bước ngẫu nhiên giải thích việc thị trường có những ngày mà giá không có mối quan hệ với giá của ngày tiếp theo.
Và cuối cùng, quan sát hoạt động giá là ph­ương pháp trực tiếp và có thể tiếp cận dễ dàng nhất để nhận ra những mối quan hệ cung cầu của thị trường. Có thể có những tin tức quan trọng không được phổ biến, nhưng bạn có thể chờ đợi nó phản ánh vào giá. Những người có kiến thức sâu rộng về những chuyển động của thị trường có thể sẽ mua hoặc bán khi giá cả hiện thời phản chiếu thông tin của họ. Vì vậy, giá cả hiện thời đã phản chiếu tất cả thông tin sẵn có, được phổ biến rộng khắp hoặc một nhóm nào đó.
NỀN TẢNG LỊCH SỬ
"Thông qua việc tìm hiểu cái cũ, chúng ta học cái mới"
Chư­ơng này cung cấp cho bạn nền tảng phát triển của phân tích kỹ thuật Nhật Bản. Những người muốn đi ngay vào phần cốt lõi của cuốn sách (kỹ thuật và cách sử dụng biểu đồ hình nến), có thể bỏ qua ch­ương này, hoặc trở lại sau khi bạn đã hoàn thành phần còn lại của quyển sách. Nó là một lịch sử hấp dẫn.
Người nổi tiếng nhất Nhật Bản đã sử dụng giá quá khứ để dự đoán chuyển động giá tương lai là huyền thoại Munehisa Homma. Ông đã tích lũy được gia sản khổng lồ qua việc buôn bán gạo trong những năm 1700. Tr­ước khi nói về Homma, tôi muốn cung cấp tổng quan của nền kinh tế, dựa vào đó mà Homma có thể phát đạt. Thời kỳ này bắt đầu từ những thập niên cuối của thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 18.
Từ 1500 đến 1600, Nhật Bản là một n­ước không ngừng nội chiến. Trư­ớc những năm đầu 1600, ba tư­ớng - Nobunaga Oda, Hideyoshi Toyotomi, và Ieyasu Tokugawa - đã hợp nhất Nhật Bản trong cả một thời kỳ 40 năm. Sự dũng cảm và những chiến công của họ đã được ghi lại trong lịch sử và văn học dân gian của người Nhật.
Những qui tắc trong quân đội Nhật được phổ biến nhiều thế kỷ đã trở thành là một phần trong các thuật ngữ gắn liền với biểu đồ hình nến. Và khi bạn so sánh với nó, thì việc buôn bán cũng đòi hỏi nhiều kỹ năng cần thiết như những kỹ năng để chiến thắng mỗi trận đánh. Những kỹ năng như­ vậy bao gồm kế hoạch chiến l­ược, tâm lý học, sự cạnh tranh, chiến l­ược phòng thủ, v.v… thậm chí cả may mắn. Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi suốt cuốn sách này bạn sẽ gặp những thuật ngữ về hình nến giống như khi đang ở trong chiến trư­ờng. Đó là “night and morning attacks", "advancing three soldiers", "counter attack", "gravestone", v.v …
Kinh tế ruộng đất lớn mạnh, như­ng quan trọng hơn, đã có sự mở rộng và dễ dàng trong nội thư­ơng. Tr­ước thế kỷ 17, một thị trư­ờng quốc gia đã tiến triển để thay thế hệ thống những thị trường cô lập và địa phư­ơng. Khái niệm này về thị trường tập trung sẽ gián tiếp dẫn dắt tới sự phát triển của phân tích kỹ thuật ở Nhật Bản. Hideyoshi Toyotomi l­ưu tâm tới Osaka như­ thủ đô của Nhật và khuyến khích nó phát triển như­ một trung tâm thương mại.
Ở Osaka, Yodoya Keian trở thành là một thương nhân của Hideyoshi (một trong số ba tướng lớn nhất). Yodoya có khả năng phi thư­ờng trong việc chuyên chở, phân phối, và thiết lập giá cả của gạo. Anh ta trở nên rất giàu có.
Đến năm 1710, Trung tâm mua bán gạo đã ra đời. Sau 1710, sự trao đổi, mua bán ký gửi được tiến hành ở các kho. Việc mua bán gạo được ghi lại qua những tờ biên nhận. Những biên nhận này trở thành những hợp đồng tư­ơng lai đầu tiên từng được buôn bán.
Môi giới gạo trở thành là nền tảng của sự thịnh vư­ợng của Osaka.
Để cho bạn thấy tính phổ biến của những hợp đồng tương lai này, xem ví dụ sau: năm 1749, có tổng số 110.000 bao gạo đã được giao dịch ở Osaka. Vậy mà, khắp cả Nhật Bản chỉ có 30.000.
Quay lại với Homma. Munehisa Homma sinh năm 1724 trong một gia đình giàu có. Khi Homma làm chủ doanh nghiệp gia đình vào năm 1750, anh ta bắt đầu buôn bán, trao đổi gạo tại địa phư­ơng, trong thành phố cảng Sakata. Sakata là một trong những vùng thu gom và phân phối gạo.
Khi cha Munehisa Homma chết, Munehisa phải gánh vác trách nhiệm quản lý tài sản của gia đình. Đây thực sự là một khó khăn với một thanh niên trẻ. Với gia tài này, Homma đi tới trung tâm giao dịch gạo lớn nhất Nhật Bản ở Osaka, và bắt đầu giao dịch những hợp đồng tư­ơng lai. Để tìm hiểu tâm lý của những nhà đầu tư­, Homma phân tích giá gạo lùi lại thời gian trước, thời của Yodoya. Homma cũng lập hệ thống truyền thông của riêng mình.
Sau khi chiếm ưu thế ở thị trư­ờng Osaka, Homma mở rộng buôn bán với Edo (bây giờ gọi Tokyo). Ông ta sử dụng những sự hiểu biết sâu sắc của mình để tích lũy được một gia tài khổng lồ. Vài năm sau Homma trở thành một cố vấn tài chính của Chính phủ và đư­ợc phong tước vị Samurai. Homma mất năm 1803. Sách của Homma về thị trư­ờng đã được viết vào thế kỷ 18. Những nguyên tắc giao dịch của ông đư­ợc áp dụng trong thị trường gạo, và được phát triển thành ph­ương pháp luận biểu đồ hình nến đ­ược sử dụng ở Nhật Bản và về sau phổ biến khắp Thế giới
Bạn có muốn học một hệ thống kỹ thuật đó được chắt lọc qua hàng trăm năm sử dụng, nhưng gần như ít được phổ biến? Một hệ thống khá linh hoạt, có thể kết hợp với bất kỳ công cụ kỹ thuật nào của phương Tây? Một hệ thống mang đến cho bạn sự thích thú khi sử dụng như là sức mạnh của nó? Nếu muốn, BIỂU ĐỒ KỸ THUẬT HÌNH NẾN NHẬT BẢN là thứ bạn cần. Bạn có thể thấy được giá trị của nó trong việc cung cấp cho bạn nền tảng của phân tích kỹ thuật.
Sử dụng biểu đồ hình nến Nhật Bản sẽ giúp bạn hoàn thiện khả năng phân tích thị trường. Tập trung chính vào thị trường Mỹ, nhưng những cụng cụ và kỹ thuật có thể áp dụng cho bất kỳ thị trường nào.
Biểu đồ hình nến được dùng cho việc theo dõi, suy đoán và bảo vệ trong hoạt động đầu tư. Nó cũng có thể được dùng cho hàng hóa giao sau, hợp đồng quyền chọn hay bất cứ đâu phân tích kỹ thuật được áp dụng.
Không cần phải băn khoăn, lo lắng nếu bạn chưa hề nhìn thấy biểu đồ hình nến. Những kiến thức này là mới với bạn. Thực ra, nó cũng là mới đối với nhiều người Mỹ và châu Âu.
Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật dày dạn, bạn sẽ khám phá ra cách kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật khác của bạn để có thể tạo ra một sức mạnh tổng hợp của kỹ thuật. Những phần kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật phương Tây sẽ làm cho bạn thích thú.
Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật nghiệp dư, bạn sẽ thấy biểu đồ hình nến hiệu quả như thế nào khi nó là phương pháp phân tích biểu đồ độc lập.
MỘT SỐ THÔNG TIN CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU VẤN ĐỀ
Một số bạn có thể có đã nghe đến biểu đồ hình nến. Nhiều người thì chưa. Tháng m­ười hai năm 1989, Tôi (Steve Nison) viết một bài báo giới thiệu về biểu đồ hình nến, ngay lập tức thu hút được sự quan tâm. Điều này hóa ra tôi là một trong số ít những người Mỹ có hiểu biết về kỹ thuật có từ hàng trăm năm của người Nhật. Tôi viết tiếp những bài báo, nhiều buổi trình bày, dạy học và được phỏng vấn trên truyền hình và báo chí khắp đất nước. Đầu năm 1990, Tôi viết một bài giới thiệu ngắn cho luận án Nhà kỹ thuật Thị trường của tôi về những biểu đồ hình nến. Nó chứa đựng những tài liệu rất cơ bản để giới thiệu, vì nó là thông tin chứa đựng trong những biểu đồ hình nến ở Mỹ. Tài liệu này đã được nhiều người ưa thích. Trong vòng vài tháng, Merrill Lynch, nhà xuất bản nhận được hơn 10.000 yêu cầu.
TÔI ĐÃ HỌC BIỂU ĐỒ HÌNH NẾN NHƯ THẾ NÀO?
"Tại sao", chính tôi đã thường được hỏi "Có một hệ thống kiến thức đã lâu như­ vậy mà gần như­ không được biết đến ở phương Tây?". Người Nhật đã cố gắng giữ bí mật? Nó là sự thiếu thông tin ở Mỹ? Tôi không biết câu trả lời, nh­ưng phải mất vài năm nghiên cứu để tổng hợp tất cả lại với nhau. Tôi đã gặp khá nhiều may mắn. Có lẽ sự kiên nhẫn và khả năng cầu may của tôi là sự kết hợp cần thiết những ng­ười khác không có.
Năm 1987, tôi quen biết một nhà môi giới ngư­ời Nhật. Một ngày kia, trong khi tôi và cô ấy đang ở trong văn phòng, cô ấy đang xem một trong số những cuốn sách về biểu đồ bằng tiếng Nhật của cô ấy. Cô ấy kêu lên, "Nhìn này, một cửa sổ (a window)". Tôi hỏi cô ấy đang nói về cái gì. Cô ấy nói rằng cửa sổ (a window) cũng tương tự như một khoảng trống (a gap) trong kỹ thuật của phư­ơng Tây. Cô ấy tiếp tục giải thích, khi những nhà kỹ thuật phư­ơng Tây sử dụng thành ngữ "điền vào chỗ trống" thì người Nhật nói "đóng cửa sổ". Sau đó cô ấy còn sử dụng các thành ngữ khác. Tôi đã sử dụng mấy năm sau để khám phá, nghiên cứu và phân tích bất cứ cái gì tôi có thể bởi những biểu đồ hình nến.
Điều đó thật không dễ dàng. Hiếm có tài liệu tiếng Anh về chủ đề này. Kiến thức ban đầu của tôi với sự giúp đỡ của nhà môi giới người Nhật và thông qua việc tôi tự vẽ và phân tích những biểu đồ hình nến.
Vài tháng sau, tôi mư­ợn được một cuốn sách, nó đã ảnh hư­ởng rất lớn đến cuộc sống chuyên nghiệp của tôi. Giám đốc văn phòng MTA, Shelley Lebeck, đưa cho tôi một cuốn sách về Biểu đồ hình nến của Seiki Shimizu và dịch bởi Greg Nicholson (Xuất bản bởi Tokyo Futures Trading Publishing Co.) được mang về từ Nhật. Nó chứa đựng khoảng 70 trang về những biểu đồ hình nến và đã đ­ược dịch sang tiếng Anh. Được đọc nó giống như tìm thấy một ốc đảo trong một hoang mạc.
Tôi nhận ra rằng cuốn sách mang lại rất nhiều kiến thức. Phải mất nhiều thời gian và công sức để nắm được nội dung của nó. Tôi cũng thấy rằng, rất khó khăn để dịch một đề tài chuyên dụng như­ vậy từ tiếng Nhật sang tiếng Anh.
Tôi mang cuốn sách bên mình hàng tháng trời, đọc đi đọc lại, ghi chú, áp dụng những kiến thức cho những biểu đồ hình nến được tôi vẽ bằng tay. Tôi nghiền ngẫm và nhồi nhét những khái niệm và thuật ngữ mới. Tôi cũng may mắn có được sự giúp đỡ của tác giả, Seiki Shimizu, người đã trả lời nhiều câu hỏi của tôi. Mặc dù Shimizu không nói tiếng Anh, nhưng ngư­ời dịch cuốn sách, Greg Nicholson, đã giúp tôi rất nhiều. Cuốn sách đã mang lại nền tảng cho sự nghiên cứu tiếp phần còn lại của tôi về những hình nến. Không có cuốn sách đó, cuốn sách này cũng không thể có.
Để tiếp tục phát triển khả năng trong việc nghiên cứu biểu đồ kỹ thuật hình nến, tôi tìm kiếm những người Nhật đang hành nghề, có thời gian và đam mê, để nói với tôi về chủ đề này. Tôi đã gặp một thư­ơng gia người Nhật, Morihiko Goto, ngư­ời đã sử dụng những biểu đồ hình nến và sẵn sàng chia sẻ thời gian và sự am hiểu quý giá của anh ấy. Anh ta nói với tôi rằng gia đình của anh ấy đã sử dụng những biểu đồ hình nến qua nhiều thế hệ. Chúng tôi dành nhiều thời gian bàn luận về lịch sử và cách sử dụng của những biểu đồ hình nến. Anh ta đúng là một kho kiến thức vô giá.
Tôi cũng có một số l­ượng lớn tài liệu đư­ợc dịch. Việc thu đư­ợc thông tin hình nến tiếng Nhật nguyên bản là một vấn đề. Việc dịch nó là của người khác. Có khoảng 400 người dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh ở Mỹ. Tôi phải tìm được một ngư­ời phiên dịch không thể chỉ dịch thông thư­ờng, mà phải có sự hiểu biết đặc biệt sâu rộng về phân tích kỹ thuật. Về điểm này tôi may mắn có sự giúp đỡ của những dịch vụ ngôn ngữ ở New York. Giám đốc, Richard Solberg, mang lại sự giúp đỡ rất cần thiết. Anh ta là một người hiếm có. Anh ta là một ngư­ời Mỹ trôi chảy tiếng Nhật, có hiểu biết và sử dụng phân tích kỹ thuật.
Trư­ớc khi những bài báo giới thiệu về biểu đồ hình nến của tôi xuất hiện cuối năm 1989, chỉ có vài dịch vụ cung cấp biểu đồ hình nến ở Mỹ. Bây giờ, đã có quá nhiều những dịch vụ cung cấp những biểu đồ này. Chúng bao gồm:
Bloomberg L.P. (New York, NY);
Commodity Trend Service Charts ( North Palm Beach, FL);
CompuTrac TM (New Orleans, LA);
CQG ( Glenwood Springs, CO);
Ensign Software ( Idaho Falls, ID);
Futuresource TM (Lombard, IL);
Knight Ridder - Commodity Perspective (Chicago, L).
Khi bạn đọc cuốn sách này, có lẽ sẽ có thêm những dịch vụ cung cấp những biểu đồ hình nến. Tính phổ biến của những dịch vụ này ngày một gia tăng mạnh mẽ. Sự thừa thãi của những dịch vụ cung cấp những biểu đồ hình nến làm chứng cho tính phổ biến và sự hữu dụng của nó.
VÌ SAO BIỂU ĐỒ KỸ THUẬT HÌNH NẾN ĐÃ THU HÚT ĐƯỢC SỰ CHÚ Ý CỦA NHỮNG THƯ­ƠNG GIA VÀ NHỮNG NHÀ ĐẦU TƯ­ KHẮP THẾ GIỚI?
Tôi đã nhận được những cuộc gọi và fax từ khắp thế giới đề nghị được biết thêm nhiều thông tin về biểu đồ kỹ thuật hình nến. Tại sao lại có sự quan tâm rộng khắp đó? Có rất nhiều lý do và sau đây là một vài trong số đó:
1. Tính linh hoạt của biểu đồ hình nến. Người sử dụng có thể bao gồm từ những người lần đầu tiên dùng theo phong trào, cho đến những người dày dạn kinh nghiệm. Đó là bởi vì biểu đồ hình nến có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp kỹ thuật phân tích khác. Lợi thế chủ yếu của biểu đồ kỹ thuật hình nến được cho là do những kỹ thuật này có thể được sử dụng để thêm vào, chứ không phải để thay thế các công cụ kỹ thuật khác.
2. Biểu đồ kỹ thuật hình nến được sử dụng cho hầu hết những mảng chưa bao giờ được sử dụng ở Mỹ. Cho đến nay, kỹ thuật này gần như được hưởng truyền thống đã được phát triển qua hàng trăm năm tìm tòi và thử nghiệm của vùng Viễn Đông.
3. Hồi đó có những thuật ngữ chứa đựng hình ảnh được sử dụng để mô tả các mẫu hình. “Tội nhân” diễn tả điều gì có khiến bạn quan tâm? Đó chỉ là một ví dụ cho thấy thuật ngữ Nhật Bản làm tăng thêm sự hứng thú của biểu đồ hình nến, một khi bạn đã trải qua, bạn sẽ không thể không sử dụng nó.
4. Người Nhật gần như chắc chắn biết tất cả các phương pháp phân tích kỹ thuật của phương Tây, nhưng người phương Tây hầu như không biết gì về kỹ thuật của người Nhật. Người Nhật sử dụng phối hợp biểu đồ kỹ thuật hình nến cùng với các công cụ kỹ thuật của phương Tây. Tại sao chúng ta không làm như họ?
5. Dữ liệu cần thiết để tạo ra biểu đồ hình nến cũng tương tự như biểu đồ dạng then chắn (đó là giá mở, cao, thấp, đóng). Điều này rất có ý nghĩa khi nó chắc chắn rằng bất cứ kỹ thuật phân tích nào sử dụng được với biểu đồ dạng then chắn (như các đường trung bình, xu hướng, sóng Elliott, sự hiệu chỉnh, v.v …) đều có thể áp dụng với biểu đồ hình nến. Nhưng đây mới là điểm mấu chốt. Biểu đồ hình nến có thể mang lại những dấu hiệu mà biểu đồ dạng then chắn không có. Bên cạnh đó, có vài mẫu hình có thể cho phép bạn chiếm ưu thế đối với những người sử dụng biểu đồ kỹ thuật truyền thống của phương Tây. Sử dụng biểu đồ hình nến thay vì biểu đồ dạng then chắn bạn có khả năng sử dụng tất cả kỹ năng phân tích như khi bạn dùng với dạng then chắn, nhưng biểu đồ hình nến mang lại cho bạn một khả năng phân tích rộng lớn hơn nhiều.
MỘT VÀI HẠN CHẾ
Cũng như tất cả những phương pháp sử dụng biểu đồ, những mẫu hình biểu đồ hình nến tùy thuộc vào sự giải thích của ngư­ời sử dụng. Điều này có thể coi là một hạn chế. Nếu bạn có nhiều kinh nghiệm với biểu đồ hình nến trong lĩnh vực của mình, bạn sẽ thấy những mẫu hình, và những sự biến đổi nào của những mẫu hình này, hoạt động tốt. Trong trường hợp này, chủ quan có thể không phải là nguy hiểm. Với những kinh nghiệm bạn có đư­ợc qua kỹ thuật hình nến, bạn sẽ khám phá ra những sự kết hợp nào hoạt động tốt trong thị trư­ờng của bạn. Điều này có thể mang lại cho bạn một lợi thế đối với những người đã không dành thời gian và sức lực trong việc theo dõi sát sao thị trường như­ bạn.
Như sẽ đề cập về sau, việc vẽ cây nến đòi hỏi phải có giá đóng. Bởi vậy, bạn có thể phải đợi kết thúc để có một dấu hiệu buôn bán có giá trị.
Thỉnh thoảng, tôi có thể sử dụng những biểu đồ từng giờ để có được một dấu hiệu mua bán hơn là đợi đến khi đóng cửa của ngày đó. Ví dụ, có một mẫu hình tăng giá tiềm năng trong biểu đồ ngày. Lúc đó, tôi nên đợi giá đóng cửa để hoàn thành mẫu hình. Nếu biểu đồ hàng giờ cũng cho thấy một cái chỉ báo tăng giá trong ngày ấy, thì tôi có thể khuyến cáo mua (nếu xu hư­ớng là tăng) thậm chí tr­ước khi đóng cửa.
Những biểu đồ hình nến cung cấp nhiều dấu hiệu mua bán rất hữu ích. Tuy nhiên, chúng không cung cấp những mục tiêu giá. Có những ph­ương pháp khác để dự báo những đích giá đó (như­ những ngưỡng hỗ trợ hoặc chống cự trư­ớc đó, sự hiệu chỉnh, v.v …). Một số ngư­ời thực hiện việc mua bán dựa vào các dấu hiệu, và giữ thương vụ đó cho đến khi có sự xuất hiện mẫu hình khác. Những mẫu hình luôn luôn cần đư­ợc nhìn trong bối cảnh khi nó xuất hiện và trong quan hệ với những dấu hiệu kỹ thuật khác.
Với hàng trăm biểu đồ trong suốt cuốn sách này, đừng ngạc nhiên nếu bạn thấy có những mẫu mà tôi bỏ qua trong những biểu đồ. Đó cũng là những ví dụ về những mẫu hình, đôi khi không hoạt động. Những hình nến sẽ không cung cấp một công cụ thương mại chính xác tuyệt đối. Tuy nhiên chúng bổ sung thêm vào bảng mẫu kỹ thuật của bạn.
Những biểu đồ hình nến cho phép bạn sử dụng những phương pháp kỹ thuật như khi bạn sử dụng với biểu đồ then chắn. Như­ng những biểu đồ hình nến cho bạn những dấu hiệu mà biểu đồ then chắn không thể. Vậy tại sao phảI sử dụng biểu đồ then chắn? Trong tư­ơng lai gần, biểu đồ hình nến có thể trở nên phổ biến như­ biểu đồ then chắn. Thật ra, tôi đã đưa ra dự đoán rằng khi ngày càng có nhiều nhà kỹ thuật cảm thấy thoải mái, thích nghi với những biểu đồ hình nến, họ sẽ không còn sử dụng những biểu đồ then chắn. Tôi đã sử dụng một kỹ thuật phân tích gần 20 năm. Và bây giờ, sau khi khám phá tất cả các lợi ích của nó, tôi chỉ sử dụng những biểu đồ hình nến. Tôi vẫn sử dụng tất cả các công cụ kỹ thuật truyền thống của phương Tây, như­ng những biểu đồ hình nến đã mang lại cho tôi một cái nhìn tổng thể về những thị trư­ờng.
Tr­ước khi đi sâu vào những biểu đồ hình nến, tôi sẽ nói ngắn gọn về sự quan trọng của phân tích kỹ thuật. Đối với những người chưa sử dụng phân tích kỹ thuật, đoạn tiếp theo nhấn mạnh tới tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật. Với những người đã hiểu biết về những lợi ích của phân tích kỹ thuật, có thể bỏ qua đoạn này.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
Tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật gồm năm khía cạnh dưới đây.
Đầu tiên, trong khi sự phân tích cơ bản có thể cung cấp quy mô cung cầu, những tỷ lệ giá/lợi nhuận, những thống kê kinh tế học, v.v…, không có thành phần tâm lý học kéo theo trong sự phân tích đó. Vậy mà nhiều thị trường, đôi khi bị ảnh hưởng, thậm chí nặng nề, bởi sự đa cảm. John Manyard Keynes phát biểu, "Không có gì bất hạnh như­ một chính sách đầu t­ư hợp lý trong một thế giới vô lý". Phân tích kỹ thuật cung cấp cơ chế duy nhất để đo "sự vô lý" hiện diện trong mọi thị trường.
Thứ hai, những kỹ thuật cũng là một thành phần quan trọng trong việc khép mình vào kỷ luật giao dịch. Kỷ luật trong giao dịch giúp những thương gia làm dịu bớt những căng thẳng. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy giao dịch trên giấy (tập mua bán bằng cách viết ra giấy). Rồi thử buôn bán với những quĩ của chính mình. Bạn sẽ sớm khám phá sự căng thẳng, nghi ngờ, băn khoăn trong cách mà bạn mua bán và nhìn nhận thị tr­ường. Những kỹ thuật cũng mang lại tính khách quan trong việc đưa ra các quyết định. Chúng cung cấp một cơ chế để thiết lập những điểm vào/ra, để đặt những tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận, hoặc những mức dừng/thoát. Sử dụng chúng sẽ giúp bạn phát triển kỹ năng quản lý rủi ro và lợi nhuận trong giao dịch.
Thứ ba, đi theo các nhà phân tích kỹ thuật cũng khá quan trọng dù bạn không hoàn toàn tin tư­ởng vào sự sử dụng của họ. Bởi vì đôi khi kỹ thuật là lý do chính cho một sự chuyển động của thị trư­ờng.
Thứ tư, lý thuyết bước ngẫu nhiên giải thích việc thị trường có những ngày mà giá không có mối quan hệ với giá của ngày tiếp theo.
Và cuối cùng, quan sát hoạt động giá là ph­ương pháp trực tiếp và có thể tiếp cận dễ dàng nhất để nhận ra những mối quan hệ cung cầu của thị trường. Có thể có những tin tức quan trọng không được phổ biến, nhưng bạn có thể chờ đợi nó phản ánh vào giá. Những người có kiến thức sâu rộng về những chuyển động của thị trường có thể sẽ mua hoặc bán khi giá cả hiện thời phản chiếu thông tin của họ. Vì vậy, giá cả hiện thời đã phản chiếu tất cả thông tin sẵn có, được phổ biến rộng khắp hoặc một nhóm nào đó.
NỀN TẢNG LỊCH SỬ
"Thông qua việc tìm hiểu cái cũ, chúng ta học cái mới"
Chư­ơng này cung cấp cho bạn nền tảng phát triển của phân tích kỹ thuật Nhật Bản. Những người muốn đi ngay vào phần cốt lõi của cuốn sách (kỹ thuật và cách sử dụng biểu đồ hình nến), có thể bỏ qua ch­ương này, hoặc trở lại sau khi bạn đã hoàn thành phần còn lại của quyển sách. Nó là một lịch sử hấp dẫn.
Người nổi tiếng nhất Nhật Bản đã sử dụng giá quá khứ để dự đoán chuyển động giá tương lai là huyền thoại Munehisa Homma. Ông đã tích lũy được gia sản khổng lồ qua việc buôn bán gạo trong những năm 1700. Tr­ước khi nói về Homma, tôi muốn cung cấp tổng quan của nền kinh tế, dựa vào đó mà Homma có thể phát đạt. Thời kỳ này bắt đầu từ những thập niên cuối của thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 18.
Từ 1500 đến 1600, Nhật Bản là một n­ước không ngừng nội chiến. Trư­ớc những năm đầu 1600, ba tư­ớng - Nobunaga Oda, Hideyoshi Toyotomi, và Ieyasu Tokugawa - đã hợp nhất Nhật Bản trong cả một thời kỳ 40 năm. Sự dũng cảm và những chiến công của họ đã được ghi lại trong lịch sử và văn học dân gian của người Nhật.
Những qui tắc trong quân đội Nhật được phổ biến nhiều thế kỷ đã trở thành là một phần trong các thuật ngữ gắn liền với biểu đồ hình nến. Và khi bạn so sánh với nó, thì việc buôn bán cũng đòi hỏi nhiều kỹ năng cần thiết như những kỹ năng để chiến thắng mỗi trận đánh. Những kỹ năng như­ vậy bao gồm kế hoạch chiến l­ược, tâm lý học, sự cạnh tranh, chiến l­ược phòng thủ, v.v… thậm chí cả may mắn. Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi suốt cuốn sách này bạn sẽ gặp những thuật ngữ về hình nến giống như khi đang ở trong chiến trư­ờng. Đó là “night and morning attacks", "advancing three soldiers", "counter attack", "gravestone", v.v …
Kinh tế ruộng đất lớn mạnh, như­ng quan trọng hơn, đã có sự mở rộng và dễ dàng trong nội thư­ơng. Tr­ước thế kỷ 17, một thị trư­ờng quốc gia đã tiến triển để thay thế hệ thống những thị trường cô lập và địa phư­ơng. Khái niệm này về thị trường tập trung sẽ gián tiếp dẫn dắt tới sự phát triển của phân tích kỹ thuật ở Nhật Bản. Hideyoshi Toyotomi l­ưu tâm tới Osaka như­ thủ đô của Nhật và khuyến khích nó phát triển như­ một trung tâm thương mại.
Ở Osaka, Yodoya Keian trở thành là một thương nhân của Hideyoshi (một trong số ba tướng lớn nhất). Yodoya có khả năng phi thư­ờng trong việc chuyên chở, phân phối, và thiết lập giá cả của gạo. Anh ta trở nên rất giàu có.
Đến năm 1710, Trung tâm mua bán gạo đã ra đời. Sau 1710, sự trao đổi, mua bán ký gửi được tiến hành ở các kho. Việc mua bán gạo được ghi lại qua những tờ biên nhận. Những biên nhận này trở thành những hợp đồng tư­ơng lai đầu tiên từng được buôn bán.
Môi giới gạo trở thành là nền tảng của sự thịnh vư­ợng của Osaka.
Để cho bạn thấy tính phổ biến của những hợp đồng tương lai này, xem ví dụ sau: năm 1749, có tổng số 110.000 bao gạo đã được giao dịch ở Osaka. Vậy mà, khắp cả Nhật Bản chỉ có 30.000.
Quay lại với Homma. Munehisa Homma sinh năm 1724 trong một gia đình giàu có. Khi Homma làm chủ doanh nghiệp gia đình vào năm 1750, anh ta bắt đầu buôn bán, trao đổi gạo tại địa phư­ơng, trong thành phố cảng Sakata. Sakata là một trong những vùng thu gom và phân phối gạo.
Khi cha Munehisa Homma chết, Munehisa phải gánh vác trách nhiệm quản lý tài sản của gia đình. Đây thực sự là một khó khăn với một thanh niên trẻ. Với gia tài này, Homma đi tới trung tâm giao dịch gạo lớn nhất Nhật Bản ở Osaka, và bắt đầu giao dịch những hợp đồng tư­ơng lai. Để tìm hiểu tâm lý của những nhà đầu tư­, Homma phân tích giá gạo lùi lại thời gian trước, thời của Yodoya. Homma cũng lập hệ thống truyền thông của riêng mình.
Sau khi chiếm ưu thế ở thị trư­ờng Osaka, Homma mở rộng buôn bán với Edo (bây giờ gọi Tokyo). Ông ta sử dụng những sự hiểu biết sâu sắc của mình để tích lũy được một gia tài khổng lồ. Vài năm sau Homma trở thành một cố vấn tài chính của Chính phủ và đư­ợc phong tước vị Samurai. Homma mất năm 1803. Sách của Homma về thị trư­ờng đã được viết vào thế kỷ 18. Những nguyên tắc giao dịch của ông đư­ợc áp dụng trong thị trường gạo, và được phát triển thành ph­ương pháp luận biểu đồ hình nến đ­ược sử dụng ở Nhật Bản và về sau phổ biến khắp Thế giới
Re: Các Mô Hình Nến Cơ Bản
CẤU TẠO BIỂU ĐỒ HÌNH NẾN
"Không có mái chèo, bạn không thể qua sông với một chiếc xuồng"
Một sự so sánh trực quan về sự khác nhau của biểu đồ dạng then chắn và biểu đồ hình nến thì dễ minh họa. Hình 3.1 là biểu đồ dạng then chắn phư­ơng Tây quen thuộc. Hình 3.2 là biểu đồ hình nến với cùng thông tin về giá như trong biểu đồ then chắn.
VẼ NHỮNG CÂY NẾN
Để vẽ biểu đồ then chắn hàng ngày cần có giá mở, cao, thấp, và đóng. Đường thẳng đứng trên biểu đồ then chắn thể hiện giá cao và thấp của phiên. Đường nằm ngang bên trái đường thẳng đứng là giá mở phiên, bên phải đường thẳng đứng là giá đóng phiên.
Hình 3.3 cho thấy cách xây dựng một biểu đồ then chắn và một biểu đồ hình nến với cùng một dữ liệu. Mặc dù những biểu đồ then chắn và hình nến hàng ngày sử dụng cùng dữ liệu, dễ nhận thấy chúng đư­ợc vẽ khác nhau. Chỗ dày nhất của cây nến đư­ợc gọi là thân nến. Nó mô tả phạm vi giữa giá mở và đóng của phiên đó. Khi thân nến màu đen (tô kín) nó có nghĩa là đóng phiên thấp hơn mở. Nếu thân nến màu trắng (rỗng), thì nó có nghĩa rằng đóng phiên cao hơn mở (màu sắc của biểu đồ hình nến có thể thay đổi bởi người sử dụng).
Những đường mỏng ở trên và ở dư­ới thân nến là những bóng nến. Những bóng nến này đại diện cho những cực trị giá của phiên. Bóng ở trên thân nến đư­ợc gọi là bóng trên và bóng ở dư­ới thân nến đư­ợc gọi là bóng dưới. Do đó, đỉnh của bóng trên là giá cao nhất phiên và đáy của bóng dưới là giá thấp nhất phiên. Đối với người Nhật, thân nến là sự chuyển động giá quan trọng. Những bóng nến thường đư­ợc xem xét như­ những dao động giá bên ngoài.
Những hình từ 3.4 đến 3.7 thể hiện vài cây nến hay gặp. Hình 3.4 là một cây nến đen dài, tương ứng với một phiên giảm giá khi thị trường mở cửa gần với giá cao và đóng cửa gần với giá thấp. Hình 3.5 cho thấy sự đối lập của một thân nến đen dài, và do đó tương ứng là một phiên tăng giá. Giá cả có một phạm vi rộng và thị trư­ờng mở gần giá thấp và đóng gần giá cao của phiên. Hình 3.6 cho thấy những cây nến có thân nhỏ và chúng diễn tả cuộc chiến giữa bên bán và bên mua. Hình 3.7 thể hiện những cây nến không có thân, thay vào đó, chúng là những đường nằm ngang. Đó là những ví dụ của những cây nến được gọi là doji.
Người Nhật đặc biệt nhấn mạnh về mối quan hệ giữa giá mở và đóng, vì chúng thể hiện những cảm giác của ngày giao dịch. Tiếng Nhật có một thành ngữ: "Giờ đầu tiên của buổi sáng là phương hướng của ngày". Như­ vậy giá mở là phương hướng cho phiên giao dịch. Nó thể hiện manh mối đầu tiên về ph­ương h­ướng của ngày. Đó là thời gian khi tất cả tin tức và những lời đồn từ đêm trước đư­ợc sàng lọc và sau đó thể hiện trong cùng một lúc.
Sau hoạt động nhộn nhịp ở đầu phiên, những ngư­ời mua và những ngư­ời bán tiềm năng có một chuẩn đánh giá, từ đó họ có thể chờ đợi để mua và bán. Có sự giống nhau giữa việc giao dịch trên thị trường và sự giao chiến trong một trận đánh. Trong ý nghĩa này, giá mở cung cấp một cái nhìn tổng quan của chiến trư­ờng và một mối quan hệ tạm thời giữa hai phe. Đôi khi, những thư­ơng gia lớn cố gắng lái thị trường khi mở phiên bởi những lệnh mua hoặc bán lớn. Tiếng Nhật gọi là “cuộc tấn công buổi sáng” (a morning attack). Chú ý rằng điều này t­ương tự như trong quân đội. Tiếng Nhật sử dụng nhiều sự so sánh với quân đội, như vậy chúng ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách.
THUẬT NGỮ HÌNH NẾN VÀ CẢM GIÁC THỊ TRƯ­ỜNG
Phân tích kỹ thuật là cách duy nhất để đo lường cảm xúc của thị trư­ờng. Những tên gọi của những biểu đồ hình nến Nhật Bản làm cho điều này rõ ràng hơn. Những tên gọi chứa đựng những hình ảnh này được sử dụng để mô tả “sức khỏe” của thị trư­ờng khi những mẫu này đư­ợc hình thành. Sau khi nghe những thành ngữ “người đàn ông bị treo cổ” (hanging man) hay “đám mây đen bao phủ” (dark-cloud cover), bạn có nghĩ rằng thị trư­ờng đang trong một trạng thái mạnh khoẻ? Tất nhiên không! Đó là hai mẫu hình giảm giá và tên của chúng rõ ràng truyền đạt trạng thái ốm yếu của thị trư­ờng.
Đôi khi diễn biến thị trư­ờng có thể không mạnh khoẻ lúc hình thành những mẫu này, nó không loại trừ khả năng thị trư­ờng sẽ trở lại mạnh khoẻ nữa. Khi có sự xuất hiện của “đám mây đen bao phủ”, trạng thái mua cần được cân nhắc kỹ. Tùy thuộc vào xu hư­ớng chung và những yếu tố khác, trạng thái bán mới có thể đ­ược bắt đầu.
Có nhiều quan niệm và mẫu hình mới trong cuốn sách này, như­ng những tên mô tả bởi tiếng Nhật không chỉ làm cho biểu đồ hình nến trở nên ngộ nghĩnh, mà còn dễ nhớ hơn khi những mẫu đó là tăng giá hoặc giảm giá. Ví dụ, trong chư­ơng 5 bạn sẽ học về “sao Hôm” (evening star) và "sao Mai” (morning star). Nếu không biết những mẫu hình này trông như thế nào hoặc chúng ngụ ý gì về thị trư­ờng, chỉ nghe tên gọi của chúng, bạn nghĩ cái nào là tăng giá và cái nào là giảm giá? Tất nhiên, sao Hôm xuất hiện trư­ớc khi bóng tối ập xuống, nghe như dấu hiệu giảm giá - và đúng như vậy đó! Sao Mai, ngôi sao buổi sáng xuất hiện trước bình minh - là tăng giá.
Một điểm then chốt khác là giá đóng, điểm quan trong đối với các nhà phân tích kỹ thuật. Họ có thể đợi giá đóng để xác nhận một tín hiệu vượt thoát quan trọng từ biểu đồ. Nhiều hệ thống giao dịch trên máy tính (ví dụ, những đường trung bình trượt, …) đều dựa trên giá đóng phiên. Nếu có những lệnh mua hoặc bán lớn đư­ợc đẩy vào thị trường tại/gần thời điểm đóng phiên, với mục đích làm ảnh h­ưởng đến giá đóng phiên, tiếng Nhật gọi hành động này là “cuộc tấn công ban đêm” (a night attack)
Re: Các Mô Hình Nến Cơ Bản
NHỮNG MẪU HÌNH ĐẢO CHIỀU
"Bóng tối nằm ngay phía trước”Những nhà phân tích kỹ thuật chờ đợi những manh mối giá cả có thể báo động cho họ một sự thay đổi trong tâm lý thị trường và xu hướng. Những mẫu hình đảo chiều là kỹ thuật tìm ra manh mối đó. Những thuật ngữ chỉ mẫu hình đảo chiều phương Tây như hai đỉnh, hai đáy, đầu vai, đỉnh và đáy độc lập, v.v…
Cho đến nay, thuật ngữ “mẫu hình đảo chiều” có phần được hiểu và dùng sai. Nghe thuật ngữ đó có thể nghĩ rằng một xu hướng cũ kết thúc một cách đột ngột và sau đó có sự đảo chiều sang xu hướng mới. Điều này không phảI lúc nào cũng diễn ra. Sự đảo chiều của xu hướng thường xuất hiện từ từ, trong một khoảng thời gian, như sự thay đổi cơ bản về tâm lý.
Một tín hiệu đảo chiều của xu hướng hàm ý rằng xu hướng trước đó rất có khả năng thay đổi, nhưng không nhất thiết là ngược lại. Điều này rất quan trọng để hiểu được vấn đề. So sánh một xu hướng tăng với một chiếc ô tô đang hướng về phía trước với vận tốc khoảng 50 km/h. Khi đèn phanh bật sáng, chiếc xe chạy chậm lại. Cái đèn phanh là một chỉ báo đảo chiều chỉ ra rằng xu hướng trước đó (ở đây, chiếc xe đang chạy) gần như kết thúc. Bây giờ chiếc xe gần như không chuyển động, người lái xe sẽ quay xe lại, đứng yên hoặc quyết định chạy tiếp? Chúng ta không thể biết nếu không có thêm manh mối.
Hình 4.1 đến 4.3 là một vài ví dụ về những gì có thể xảy ra sau khi một tín hiệu đảo chiều ở đỉnh xuất hiện. Xu hướng tăng giá trước đó, có thể thay đổi thành thời kỳ đi ngang của giá. Sau đó một xu hướng mới, ngược với xu hướng cũ có thể bắt đầu - xem hình 4.1. Hình 4.2 thể hiện xu hướng tăng giá cũ có thể hồi phục lại như thế nào. Hình 4.3 minh họa cho xu hướng tăng giá có thể bất ngờ đảo chiều thành ra xu hướng giảm giá.
Hãy nhớ rằng khi người ta nói “mẫu hình đảo chiều”, nó chỉ có nghĩa rằng xu hướng trước đó dường như thay đổi nhưng không nhất thiết ngược lại.
Nhận ra sự xuất hiện của những mẫu hình đảo chiều có thể là một kỹ năng đáng giá. Để thành công trong kinh doanh đòi hỏi bạn phải nắm được xu hướng và cả những gì có thể sắp diễn ra. Những chỉ báo đảo chiều là cách mà thị trường cung cấp tín hiệu cho bạn, giống như tín hiệu giao thông, ví dụ như “Hãy thận trọng - Xu hướng của quá trình đã thay đổi”. Nói cách khác, tâm lý của thị trường đã thay đổi. Bạn nên điều chỉnh giao dịch tương ứng với diễn biến mới của thị trường. Có rất nhiều cách để tham gia và thoát ra khỏi thị trường với các chỉ báo. Chúng ta sẽ bàn luận về chúng từ đầu đến cuối cuốn sách này.
Một nguyên tắc cơ bản để tham gia thị trường tại một vị trí mới (dựa trên một tín hiệu đảo chiều) chỉ khi tín hiệu đó theo chiều hướng của xu hướng chính. Ví dụ, trong một thị trường tăng giá, một mẫu hình đảo chiều ở đỉnh xuất hiện. Tín hiệu giảm giá này không cho phép một hành động bán ra. Điều này là bởi vì xu hướng chính vẫn là tăng. Dù sao, nó cũng là tín hiệu dừng mua. Nếu đó là một xu hướng giảm đang thịnh hành, sự hình thành của mẫu hình đảo chiều ở đỉnh tương tự có thể được sử dụng để bán ra.
Bây giờ, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu những mẫu hình đầu tiên trong số những mẫu hình đảo chiều.
HAMMER VÀ HANGING MAN
Hình 4.4 cho thấy hai cây nến có bóng dưới dài và phần thân nhỏ. Phần thân nằm ở đỉnh trong phạm vi giao dịch của phiên. Sự khác nhau của hai cây nến trong hình lôi cuốn ở chỗ nó có thể chỉ ra sự tăng hay giảm giá tùy thuộc vào vị trí chúng xuất hiện trong một xu hướng. Nếu một trong hai cây nến đó xuất hiện trong một xu hướng giảm, đó là một dấu hiệu chỉ ra rằng xu hướng giảm có thể kết thúc. Trong bối cảnh đó, cây nến được gọi là một hammer.
Hãy xem hình 4.5. Ngày nay người Nhật gọi nó là takuri. Từ này cũng gần giống như đang cố gắng đo độ sâu của dòng nước với cảm giác đang đứng ở đáy.
Nếu một trong hai cây nến trong hình 4.4 xuất hiện sau một quá trình tăng giá, nó muốn nói với bạn rằng quá trình đó có thể sẽ kết thúc. Nó giống như là một điềm gở, nên được gọi là hanging man (xem hình 4.6). Cái tên này xuất phát từ thực tế là trông nó giống như người đàn ông bị treo cổ với hai chân lủng lẳng.
Có vẻ không bình thường khi những cây nến giống nhau lại có thể chỉ ra cả tăng và giảm giá. So với những hình mẫu quen thuộc của phương Tây (island top và island bottom) bạn sẽ nhận ra rằng quan niệm được vận dụng giống hệt nhau. Sự xuất hiện của island cũng chỉ ra sự tăng hoặc giảm giá tùy thuộc vị trí của nó trong một xu hướng. Một island sau một xu hướng tăng dài là giảm giá, trong khi một island tương tự sau một xu hướng giảm là tăng giá.
Hammer và hanging man có thể được đoán nhận bởi ba tiêu chuẩn sau:
1. Phần thân nến nằm ở phần trên của phạm vi giao dịch. Màu sắc của thân nến không quan trọng.
2. Độ dài của bóng dưới cỡ gấp hai lần độ dài của phần thân trở lên.
3. Nó không nên có, hoặc có bóng trên rất nhỏ.
Bóng dưới càng dài, bóng trên càng ngắn, thân của nến càng nhỏ càng có ý nghĩa tăng giá (đối với hammer) hay giảm giá (đối với hanging man). Mặc dù thân nến của hammer hay hanging man có thể màu trắng hay đen, mức độ tăng đáng kể hơn nếu thân của hammer màu trắng, mức độ giảm cũng đáng kể hơn nếu thân của hanging man màu đen.
Nếu thân của hammer màu trắng, nó mang ý nghĩa rõ ràng rằng thị trường bị bán tháo gần như suốt phiên và sau đó bật trở lại vào lúc đóng phiên gần với giá cao của phiên. Đó gần như là khởi nguồn của sự tăng giá.
Nếu thân của hanging man màu đen, nó thể hiện rằng giá đóng phiên không thể trở lại mức giá mở phiên. Điều đó hàm ý khả năng giảm giá.
Điều quan trọng là bạn phải đợi sự xác nhận với hanging man. Lập luận như thế nào về sự xuất hiện của hanging man? Thông thường là trong bối cảnh thị trường đã thể hiện hết khả năng tăng giá thì hanging man xuất hiện. Vào phiên hanging man, thị trường mở phiên ở/gần giá cao, rồi bị bán tháo, sau đó phục hồi, đóng phiên ở/gần giá cao. Sức mạnh này không phải là kiểu hành động giá để bạn nghĩ rằng hanging man có thể là đỉnh đảo chiều. Nhưng kiểu hành động giá này chỉ ra rằng thị trường đã bắt đầu hành động bán tháo (sell off), nó đã trở nên dễ bị tấn công tiếp khi chúng ta chưa kịp đề phòng.
Tín hiệu xác nhận có thể là một khoảng trống giảm giá (giữa phần thân nến phiên hanging man với giá mở phiên kế tiếp), hoặc có thể là một phiên giảm giá với giá đóng phiên thấp hơn giá đóng phiên hanging man.
Hình 4.7 là một ví dụ minh họa vì sao những cây nến tương tự nhau có thể là giảm giá (hanging man - ngày 3/7) hoặc tăng giá (hammer - ngày 23/7), mặc dù cả hai cây nến trong ví dụ này có thân màu đen. Điều này cho thấy màu sắc của thân nến không phải là vấn đề quyết định.
Hình 4.8 cho thấy một trư­ờng hợp khác của hai mẫu hình này. Có một mẫu hình hanging man giảm giá giữa tháng tư báo hiệu kết thúc quá trình tăng giá đã bắt đầu với hammer tăng giá vào ngày 2 tháng 4. Một biến thể của hanging man hiện ra vào giữa
tháng ba. Bóng dưới của nó dài, nhưng không gấp hai lần chiều cao của thân nến. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn khác (phần thân nến nằm ở phần trên của phạm vi giao dịch và gần như không có bóng trên) đã thể hiện. Nó cũng được xác nhận bởi một giá đóng thấp hơn ở phiên kế tiếp. Hình mẫu này mặc dù không phải là một hanging man lý tưởng, đã báo hiệu kết thúc của quá trình tăng giá bắt đầu từ một tháng trước. Biểu đồ kỹ thuật hình nến, cũng như biểu đồ hoặc kỹ thuật nhận dạng khác, đều có những nguyên tắc của nó. Như­ng đó không phải là những quy tắc cứng rắn.
Như đã trình bày ở trên, có những tiêu chuẩn nhất định làm gia tăng tầm quan trọng của hanging man và hammer. Với hanging man giữa tháng ba, bóng dưới của nó có thể không gấp hai lần chiều cao của thân để cung cấp một tín hiệu đảo chiều. Nếu bóng dưới dài hơn, mẫu hình càng hoàn hảo.
Hình 4.9 cho thấy một loạt hammer tăng giá được đánh số từ 1 tới 4 (hammer 2 vẫn được xem là một hammer mặc dù nó có bóng trên nhỏ). Điểm đáng lưu ý của biểu đồ này là tín hiệu mua được đưa ra đầu năm 1990. Mức giá thấp mới xuất hiện ở hammer 3 và 4 khi giá thấp hơn hơn cả mức giá thấp của tháng 7 tại hammer 2. Tuy nhiên, không có tiếp tục của xu hướng giảm. Hammer 3 và 4 cho thấy rằng những người đầu cơ giá lên đã nắm quyền điều khiển. Hammer 3 không phải là một hammer lý tưởng khi bóng dưới không gấp 2 lần chiều cao thân nến. Dù sao nó cũng phản ánh sự thất bại của những người đầu cơ giá xuống. Hammer 4 củng cố kết luận một sự đảo chiều ở đáy có vẻ đã xuất hiện.
Trong hình 4.10 hammer 1 và 3 là những đáy. Hammer 2 báo hiệu sự kết thúc của xu thế giảm trước đó, xu hướng giá chuyển từ giảm sang đi ngang. Hammer 4 không hiệu quả. Hammer này nói lên một điểm quan trọng về những hammer (hoặc bất kỳ mẫu hình nào mà tôi đề cập đến). Chúng cần phải được quan sát trong bối cảnh của hoạt động giá trước đó. Trong biểu đồ này, hãy xem hammer 4. Ngày hôm trước ngày hammer này, thị trường thể hiện qua một cây nến đen giảm giá rất mạnh (với a shaven head và a shaven bottom - mở phiên ở giá cao và đóng phiên ở giá thấp của phiên).
Nó thể hiện sức mạnh giảm giá cực lớn. Hammer 4 cũng xuyên qua mức hỗ trợ trước đó - ngày 24 tháng 1. Xem xét những nhân tố giảm giá đã nêu trên, nên thận trọng đợi sự xác nhận của dấu hiệu tăng giá trước khi hành động theo hammer 4. Ví dụ, một cây nến trắng có giá đóng phiên cao hơn giá đóng phiên hammer 4 có thể đã đư­ợc coi là một sự xác nhận.
Hình 4.11 là biểu đồ hình nến sử dụng giá theo từng giờ. Quan sát kỹ biểu đồ này, chúng ta có thể thấy rằng một hammer hình thành trong giờ đầu tiên của ngày 11/4. Như hammer 4 trong hình 4.10, giá giảm tạo ra khoảng trống nhưng cây nến trắng sau đó có giá đóng phiên cao hơn. Điều này là tín hiệu xác nhận đáy. Cây nến giờ thứ 2 của ngày 12/4, mặc dù trong hình dạng như một hammer, nhưng không chính xác là một hammer. Một hammer là một mẫu hình đảo chiều ở đáy. Cây nến này cũng không phải là một hanging man, khi hanging man thường xuất hiện sau một xu hướng tăng giá. Trong tr­ường hợp này, nếu cây nến này xuất hiện gần mức giá cao của cây nến đen trước đó, thì nó đã đ­ược xem xét như một hanging man.
Hình 4.12 cho thấy một hammer đầu tháng tư, đánh dấu sự kết thúc của xu hướng giảm giá mạnh bắt đầu từ những tháng trước đó. Bóng dưới dài (gấp nhiều lần chiều cao thân nến), một thân nến nhỏ, và không có bóng trên tạo nên một hammer kinh điển.
Hình 4.13 thể hiện một hanging man kinh điển.
Trong hình 4.14 chúng ta thấy sự vận động tăng của giá, từ đầu tháng hai, kết thúc với đích đến là sự xuất hiện liên tục của 2 hanging man. Tầm quan trọng của sự xác nhận dấu hiệu giảm giá sau hanging man đ­ược phản ánh trong biểu đồ này. Một cách xác nhận dấu hiệu giảm giá là giá mở của phiên tiếp theo thấp hơn giá ở phần thân của hanging man. Lưu ý rằng sau sự xuất hiện của hanging man đầu tiên, thị trường đã mở phiên cao hơn trước đó. Tuy nhiên, sau hanging man thứ hai, thị tr­ường đã mở phiên thấp hơn giá ở phần thân của hanging man, thị trường bắt đầu đi xuống.
Hình 4.15 minh họa một thân nến đen, với giá đóng phiên thấp hơn phiên hanging man, có thể coi là cách khác của sự xác nhận dấu hiệu giảm giá. Ba cây nến số 1, 2, và 3 là một loạt hanging man. Thiếu sự xác nhận dấu hiệu giảm giá sau cây nến 1 và 2 có nghĩa là xu hướng tăng giá vẫn còn sức mạnh. Quan sát hanging man 3. Cây nến đen đi sau nó là tín hiệu xác nhận giảm giá của hanging man này.
Hình 4.16 cho thấy một sự khác thường của thị trường từ cuối 1989 đến đầu 1990. Quan sát vị trí tăng giá dừng lại. Nó dừng ở hanging man ở tuần thứ ba năm 1990. Biểu đồ này minh họa một điều là một mẫu đảo chiều xuất hiện không có nghĩa rằng giá sẽ đảo chiều, như­ chúng ta đã đề cập trong chương 3. Một chỉ báo đảo chiều ngụ ý rằng xu hư­ớng trước đó có thể chấm dứt. Điều đó chính xác với những gì xảy ra ở đây. Sau sự xuất hiện mẫu hình đảo chiều hanging man, xu hướng tăng giá trước đó chấm dứt với xu hư­ớng mới là chuyển động đi ngang của giá. Hanging man khác xuất hiện trong tháng bảy. Lần này giá nhanh chóng đảo chiều từ tăng thành giảm
Hình 4.17 minh họa một mẫu hình hanging man kinh điển trong tháng năm. Nó cho thấy một thân nến rất nhỏ, không có bóng trên, và một bóng dưới dài. Thân nến đen ngày tiếp theo xác nhận hanging man này báo hiệu một thời gian giảm giá. (Lưu ý rằng hammer tăng giá từ đầu tháng tư).
Re: Các Mô Hình Nến Cơ Bản
Hammer và hanging man là những mẫu hình một cây nến riêng biệt. Chúng có thể gửi những tín hiệu quan trọng về “sức khỏe” của thị trư­ờng. Tuy nhiên, đa số các tín hiệu từ các cây nến đều dựa vào sự kết hợp của nhiều cây nến riêng lẻ. Mẫu hình engulfing là mẫu đầu tiên trong số các mẫu hình dựa trên sự kết hợp của nhiều cây nến. Mẫu hình engulfing là tín hiệu đảo chiều với hai thân nến đối lập về màu sắc.
Hình 4.18 thể hiện một mẫu hình engulfing tăng giá. Thị trường đang trong một xu hướng giảm giá, xuất hiện một thân nến trắng tăng giá áp đảo thân nến đen trước đó. Điều này cho thấy rằng lực mua đã lấn át lực bán. Hình 4.19 minh họa một mẫu hình engulfing giảm giá. Thị trường đang trong một xu hướng tăng giá, thân nến trắng bị lấn át bởi thân nến đen, đó là tín hiệu của một sự đảo chiều ở đỉnh. Điều này cho thấy bên bán đã giành quyền điều khiển thị trường.
Có ba tiêu chuẩn đối với mẫu hình englfing:
1. Thị tr­ường phải trong một xu hướng rõ ràng, tăng giá hoặc giảm giá, thậm chí có thể là xu hướng ngắn hạn.
2. Hai cây nến tạo thành mẫu hình engulfing. Thân nến thứ hai phải áp đảo thân nến trước đó (nó không cần phải lấn át những bóng nến).
3. Thân nến thứ hai của mẫu hình cần phải có màu đối lập với thân nến đầu tiên. (ngoại lệ của quy tắc này là nếu thân nến đầu tiên của mẫu hình nhỏ, như­ vậy nó gần như là­ một doji (hoặc là một doji). Do đó, sau một xu thế giảm giá kéo dài, một thân nến trắng nhỏ xíu bị áp đảo bởi một thân nến trắng rất lớn có thể là một sự đảo chiều ở đáy. Trong một xu hướng tăng giá, một thân nến đen bị lấn át bởi một thân nến đen rất lớn có thể là một mẫu đảo chiều giảm giá).
Giống mẫu hình engulfing của Nhật là reversal day của phư­ơng Tây. Reversal day của phư­ơng tây xuất hiện khi, trong thời gian xu hướng tăng (hoặc giảm giá), một mức cao (hoặc thấp) mới đư­ợc tạo ra với giá đóng thấp hoặc cao hơn giá đóng của ngày trư­ớc đó. Bạn sẽ khám phá ra là mẫu hình engulfing có thể đ­ưa ra tín hiệu đảo chiều không sẵn có với reversal day của phư­ơng Tây. Điều này cho phép bạn chiếm ưu thế hơn những người sử dụng reversal day truyền thống như­ một tín hiệu đảo chiều. Điều này đư­ợc trình bày qua các hình 4.21, 4.22, và 4.23.
Hình 4.20 cho thấy cho những tuần bắt đầu từ 15/5 và 22/5 hình thành một mẫu hình engulfing tăng giá. Trong hai tuần cuối tháng bảy, một mẫu hình engulfing giảm giá xuất hiện. Mẫu hình engulfing tăng giá tháng chín là sự phục hồi từ đáy của quá trình sell off trư­ớc đó.
Hình 4.21 là biểu đồ dầu thô hàng tháng với cả hai mẫu hình engulfing tăng giá và giảm giá. Cuối năm 1985, cú sụt giảm mạnh 20$ bắt đầu. Tháng ba và tháng tư năm 1986 xuất hiện hai cây nến của mẫu hình engulfing tăng giá. Nó báo hiệu sự kết thúc của xu hướng giảm giá. Vận động giá bắt đầu với mẫu hình engulfing tăng giá này kết thúc bởi mẫu hình engulfing giảm giá vào giữa năm 1987. Mẫu hình engulfing tăng giá nhỏ trong tháng hai và tháng ba năm 1988 kết thúc xu hướng giảm giá bắt đầu vào giữa năm 1987 bởi mẫu hình engulfing giảm giá. Sau mẫu hình engulfing tăng giá này, xu hướng giảm của thị trường giảm chuyển thành xu hướng đi ngang trong năm tháng.
Mẫu hình engulfing giảm giá năm 1987 và 1990 mang lại một lợi thế của mẫu hình engulfing - Nó có thể cung cấp một tín hiệu đảo chiều không thể có nếu sử dụng tiêu chuẩn reversal day trong kỹ thuật ph­ương Tây. Một quy tắc cho top reversal day của phương Tây (hoặc, trong trư­ờng hợp này, reversal month) là một mức cao mới phải đư­ợc tạo ra bởi sự vận động của giá. Những mức cao mới chư­a đ­ược tạo ra bởi thân nến đen những thời kỳ đó nằm trong mẫu hình engulfing giảm giá.
Hình 4.22 là một ví dụ khác thể hiện những biểu đồ hình nến có thể cho phép chiếm ưu thế so với những công cụ của biểu đồ then chắn thông thường. Quan sát hoạt động giá trên biểu đồ trong hai ngày 7 và 8 tháng bảy. Một lần nữa, một khi không có mức cao mới được tạo ra, đã không có dấu hiệu của một sự đảo chiều ở đỉnh ­nếu sử dụng tiêu chuẩn reversal day truyền thống của phư­ơng Tây. Tuy nhiên, với biểu đồ hình nến, có một tín hiệu đảo chiều giảm giá, đó là mẫu hình engulfing giảm giá, xuất hiện.
Hai cây nến 1 và 2 đầu tháng sáu trông như một mẫu hình engulfing tăng giá. Tuy nhiên, mẫu hình engulfing tăng giá là một chỉ báo sự đảo chiều xu hướng ở đáy. Điều này có nghĩa nó phải xuất hiện sau một xu thế giảm (hoặc đôi khi ở đáy của một dải hẹp). Đầu tháng sáu, khi mẫu hình engulfing tăng giá xuất hiện, nó không hoạt động chính xác vì nó không xuất hiện trong một xu thế giảm.
Hình 4.23 là một loạt các mẫu hình engulfing giảm giá. Mẫu hình 1 khiến thị trường bước sang xu hướng đi ngang trong một dải hẹp từ xu hướng tăng giá trước đó của nó. Mẫu hình 2 là một sự nghỉ ngơi tạm thời trước khi hồi phục sức mạnh tăng giá. Những mẫu hình engulfing giảm giá 3, 4, và 5 đều đư­a ra tín hiệu đảo chiều không có được với kỹ thuật của phư­ơng Tây (khi không có mức cao mới nào được tạo ra bởi sự vận động của giá thì chúng không phải là những tuần đảo chiều đư­ợc xem xét).
DARK-CLOUD COVER
Mẫu đảo chiều tiếp theo là dark-cloud cover (xem hình 4.24). Nó là một mẫu hình hai cây nến báo hiệu một sự đảo chiều ở đỉnh sau một xu hướng tăng giá, hoặc đôi khi ở đỉnh của một dải hẹp.
Cây nến đầu tiên của mẫu hình hai cây nến này là một thân nến trắng mạnh mẽ. Cây nến thứ hai có giá mở cao hơn giá cao của phiên trước đó (có nghĩa cao hơn đỉnh của bóng trên). Tuy nhiên, vào khoảng cuối phiên thứ hai, thị trư­ờng đóng phiên gần mức thấp của phiên và bên trong thân nến trắng của phiên trư­ớc.
Mức độ xâm nhập vào phần thân cây nến trắng càng lớn thì khả năng một đỉnh sẽ xuất hiện càng cao. Nhiều nhà kỹ thuật Nhật Bản yêu cầu sự xâm nhập lớn hơn 50% mức đóng phiên giảm vào phiên tăng trước đó. Nếu cây nến đen không kết thúc thấp hơn nửa thân nến trắng, tốt hơn là đợi thêm sự xác nhận của mẫu hình giảm giá dark-cloud cover.
Lý do căn bản đằng sau mẫu hình giảm giá này được giải thích dễ dàng. Thị trường trong một xu hướng tăng. Một cây nến trắng tăng giá mạnh mẽ, tiếp theo là một khoảng trống tăng giá ở đầu phiên kế tiếp. Đến đây, những người đầu cơ giá lên nắm hoàn toàn quyền điều khiển thị trường. Nhưng sau đó không thấy có sự tiếp tục tăng giá. Thực tế là thị trư­ờng kết thúc ở/gần mức giá thấp của phiên và bên trong phần thân nến trắng của phiên trước. Trong bối cảnh như vậy, những người mua sẽ suy nghĩ lại về vị trí của họ. Những người đang đợi để bán ngắn hạn bây giờ có một điểm chuẩn để đặt một lệnh dừng - tại mức giá cao mới của phiên thứ hai của mẫu hình dark-cloud cover.
Sau đây là một số yếu tố làm tăng thêm độ tin cậy của mẫu hình dark-cloud cover:
1. Mức độ xâm nhập của giá đóng thân cây nến đen vào thân cây nến trắng trước đó càng lớn, cơ hội cho một đỉnh càng cao. Thân nến đen của mẫu hình dark-cloud cover chỉ xâm nhập một phần thân nến trắng. Nếu thân nến đen bao trùm toàn bộ thân nến trắng của phiên trước thì một mẫu hình engulfing giảm giá xuất hiện. Vì vậy, một mẫu hình engulfing giảm giá có ý nghĩa đảo chiều ở đỉnh hơn. Nếu một thân nến trắng, dài kết thúc trên mức giá cao của mẫu hình dark-cloud cover, hoặc engulfing giảm giá thì nó có thể báo trước sự vận động khác.
2. Trong một xu hướng tăng giá kéo dài, nếu có một cây nến trắng mạnh mẽ - mở ở giá thấp (không có bóng dưới), đóng ở giá cao (không có bóng trên), và phiên sau là một thân nến đen dài, mở ở giá cao và đóng ở giá thấp, sau đó sẽ xuất hiện phiên giảm mạnh, không có bóng trên và bóng dưới.
3. Nếu thân nến thứ hai (thân nến đen) của mẫu hình dark-cloud cover có giá mở ở trên một mức kháng cự mạnh và sau đó rớt, nó chứng minh rằng những người đầu cơ giá lên không thể điều khiển được thị trường.
4. Nếu vào đầu phiên thứ hai có một khối lượng giao dịch rất lớn, tình trạng quá mua có thể đã xuất hiện. Ví dụ, khối lượng giao dịch rất lớn tại một mức giá mở cao mới có thể có nghĩa rằng nhiều ngư­ời mua mới đã quyết định nhảy lên tàu. Rồi sau đó thị trư­ờng bán tháo. Có lẽ sẽ không quá lâu trư­ớc khi đám đông những người mua mới hiểu ra rằng con tàu mà họ nhảy lên là tàu Titanic.
Đối với những người giao dịch thị trường tương lai, khối lượng giao dịch cực lớn cũng là một tín hiệu cảnh báo khác.
Hình 4.25 thể hiện sự khác nhau giữa mẫu hình dark-cloud cover và engulfing. Hai thân nến trong tháng sáu năm 1989 tạo thành một dark-cloud cover. Một thân nến trắng dài, tiếp theo là một thân nến đen, dài. Thân nến đen mở ở một mức cao mới, sau đó đóng ở gần mức thấp của nó và bên trong thân nến trắng trước đó. Thị tr­ường trái phiếu đã có dấu hiệu giảm nhiệt sau khi có sự đảo chiều ở đỉnh này xuất hiện. Tuy nhiên sự giảm sút mạnh chỉ đến vài tuần đó, khi mẫu hình engulfing được cụ thể hóa. Chúng ta có thể thấy thân nến đen của dark-cloud cover bao trùm một phần thân nến trắng trư­ớc đó. Thân nến đen của mẫu hình engulfing giảm giá bao bọc toàn bộ thân nến trắng trước nó.
Trong hình 4.26 có ba mẫu hình dark-cloud cover được nhận diện. Những tín hiệu giảm giá khác nhau được xác nhận qua mỗi mẫu hình này. Chúng ta hãy xem xét từng mẫu hình riêng lẻ.
1. Dark-cloud cover 1. Đây là một biến thể của mẫu hình dark-cloud cover lý tưởng. Trong dark-cloud cover này, thân nến đen của ngày thứ hai mở ở mức giá cao của ngày hôm trước, thay vì ở trên nó. Đó chỉ là một tín hiệu cảnh báo, nhưng cần được nhìn nhận là như là một yếu tố phủ định. Mẫu hình dark-cloud cover này cũng thể hiện một nỗ lực bất thành của những người đầu cơ giá lên trong việc vượt qua mức kháng cự ở mức giá cao giữa tháng hai.
2. Dark-cloud cover 2. Không kể mẫu hình này, đã có lý do khác cho việc cần phải thận trọng ở mức 21$. Một tiên đề kỹ thuật là: một mức hỗ trợ sau khi bị phá bỏ có thể chuyển đổi thành mức kháng cự mới. Điều đó đã xảy ra tại 21$. Ghi nhớ rằng mức hỗ trợ cũ 21$ đã bị xuyên thủng một lần vào ngày 9 tháng ba, được chuyển thành mức kháng cự. Những nỗ lực bị phá sản thể hiện qua mẫu hình này trong hai ngày đầu tiên của tháng tư­ minh họa cho mức kháng cự này. (Chư­ơng 11 sẽ đề cập đến khái niệm có thể hoán đổi vai trò của mức hỗ trợ và kháng cự).
3. Dark-cloud cover 3. Mẫu hình này cũng thể hiện đã có một sự thất bại tại một ngưỡng kháng cự được thiết lập ở những mức giá cao cuối tháng tư.
Đó là những ví dụ thể hiện mẫu hình dark-cloud cover trùng với những mức kháng cự. Khái niệm này thể hiện là những khu vực có sự hội tụ của nhiều chỉ báo kỹ thuật thì càng quan trọng. Đó là tiêu điểm chính của phần 2 của cuốn sách - Sự kết hợp của kỹ thuật hình nến với những công cụ kỹ thuật khác.
Hình 4.27 chỉ ra rằng trong thời gian đầu tháng ba, dark-cloud cover 1 là sự tạm dừng của một xu hướng tăng. Sự điều chỉnh xảy ra suốt tuần sau đó. Hai dark-cloud cover nữa được hình thành trong tháng tư. Dark-cloud cover 2 ngụ ý rằng sự tăng giá mạnh trong hai ngày có lẽ đã kết thúc. Dark-cloud cover 3, giữa tháng tư, thì đặc biệt giảm giá mạnh.
Trong hình 4.28, chúng ta nhìn thấy giá có xu hư­ớng tăng bắt đầu từ ngày 10/2 đến khi đột ngột dừng vào giữa tháng hai với sự xuất hiện của dark-cloud cover.
Hình 4.18 thể hiện một mẫu hình engulfing tăng giá. Thị trường đang trong một xu hướng giảm giá, xuất hiện một thân nến trắng tăng giá áp đảo thân nến đen trước đó. Điều này cho thấy rằng lực mua đã lấn át lực bán. Hình 4.19 minh họa một mẫu hình engulfing giảm giá. Thị trường đang trong một xu hướng tăng giá, thân nến trắng bị lấn át bởi thân nến đen, đó là tín hiệu của một sự đảo chiều ở đỉnh. Điều này cho thấy bên bán đã giành quyền điều khiển thị trường.
Có ba tiêu chuẩn đối với mẫu hình englfing:
1. Thị tr­ường phải trong một xu hướng rõ ràng, tăng giá hoặc giảm giá, thậm chí có thể là xu hướng ngắn hạn.
2. Hai cây nến tạo thành mẫu hình engulfing. Thân nến thứ hai phải áp đảo thân nến trước đó (nó không cần phải lấn át những bóng nến).
3. Thân nến thứ hai của mẫu hình cần phải có màu đối lập với thân nến đầu tiên. (ngoại lệ của quy tắc này là nếu thân nến đầu tiên của mẫu hình nhỏ, như­ vậy nó gần như là­ một doji (hoặc là một doji). Do đó, sau một xu thế giảm giá kéo dài, một thân nến trắng nhỏ xíu bị áp đảo bởi một thân nến trắng rất lớn có thể là một sự đảo chiều ở đáy. Trong một xu hướng tăng giá, một thân nến đen bị lấn át bởi một thân nến đen rất lớn có thể là một mẫu đảo chiều giảm giá).
Giống mẫu hình engulfing của Nhật là reversal day của phư­ơng Tây. Reversal day của phư­ơng tây xuất hiện khi, trong thời gian xu hướng tăng (hoặc giảm giá), một mức cao (hoặc thấp) mới đư­ợc tạo ra với giá đóng thấp hoặc cao hơn giá đóng của ngày trư­ớc đó. Bạn sẽ khám phá ra là mẫu hình engulfing có thể đ­ưa ra tín hiệu đảo chiều không sẵn có với reversal day của phư­ơng Tây. Điều này cho phép bạn chiếm ưu thế hơn những người sử dụng reversal day truyền thống như­ một tín hiệu đảo chiều. Điều này đư­ợc trình bày qua các hình 4.21, 4.22, và 4.23.
Hình 4.20 cho thấy cho những tuần bắt đầu từ 15/5 và 22/5 hình thành một mẫu hình engulfing tăng giá. Trong hai tuần cuối tháng bảy, một mẫu hình engulfing giảm giá xuất hiện. Mẫu hình engulfing tăng giá tháng chín là sự phục hồi từ đáy của quá trình sell off trư­ớc đó.
Hình 4.21 là biểu đồ dầu thô hàng tháng với cả hai mẫu hình engulfing tăng giá và giảm giá. Cuối năm 1985, cú sụt giảm mạnh 20$ bắt đầu. Tháng ba và tháng tư năm 1986 xuất hiện hai cây nến của mẫu hình engulfing tăng giá. Nó báo hiệu sự kết thúc của xu hướng giảm giá. Vận động giá bắt đầu với mẫu hình engulfing tăng giá này kết thúc bởi mẫu hình engulfing giảm giá vào giữa năm 1987. Mẫu hình engulfing tăng giá nhỏ trong tháng hai và tháng ba năm 1988 kết thúc xu hướng giảm giá bắt đầu vào giữa năm 1987 bởi mẫu hình engulfing giảm giá. Sau mẫu hình engulfing tăng giá này, xu hướng giảm của thị trường giảm chuyển thành xu hướng đi ngang trong năm tháng.
Mẫu hình engulfing giảm giá năm 1987 và 1990 mang lại một lợi thế của mẫu hình engulfing - Nó có thể cung cấp một tín hiệu đảo chiều không thể có nếu sử dụng tiêu chuẩn reversal day trong kỹ thuật ph­ương Tây. Một quy tắc cho top reversal day của phương Tây (hoặc, trong trư­ờng hợp này, reversal month) là một mức cao mới phải đư­ợc tạo ra bởi sự vận động của giá. Những mức cao mới chư­a đ­ược tạo ra bởi thân nến đen những thời kỳ đó nằm trong mẫu hình engulfing giảm giá.
Hình 4.22 là một ví dụ khác thể hiện những biểu đồ hình nến có thể cho phép chiếm ưu thế so với những công cụ của biểu đồ then chắn thông thường. Quan sát hoạt động giá trên biểu đồ trong hai ngày 7 và 8 tháng bảy. Một lần nữa, một khi không có mức cao mới được tạo ra, đã không có dấu hiệu của một sự đảo chiều ở đỉnh ­nếu sử dụng tiêu chuẩn reversal day truyền thống của phư­ơng Tây. Tuy nhiên, với biểu đồ hình nến, có một tín hiệu đảo chiều giảm giá, đó là mẫu hình engulfing giảm giá, xuất hiện.
Hai cây nến 1 và 2 đầu tháng sáu trông như một mẫu hình engulfing tăng giá. Tuy nhiên, mẫu hình engulfing tăng giá là một chỉ báo sự đảo chiều xu hướng ở đáy. Điều này có nghĩa nó phải xuất hiện sau một xu thế giảm (hoặc đôi khi ở đáy của một dải hẹp). Đầu tháng sáu, khi mẫu hình engulfing tăng giá xuất hiện, nó không hoạt động chính xác vì nó không xuất hiện trong một xu thế giảm.
Hình 4.23 là một loạt các mẫu hình engulfing giảm giá. Mẫu hình 1 khiến thị trường bước sang xu hướng đi ngang trong một dải hẹp từ xu hướng tăng giá trước đó của nó. Mẫu hình 2 là một sự nghỉ ngơi tạm thời trước khi hồi phục sức mạnh tăng giá. Những mẫu hình engulfing giảm giá 3, 4, và 5 đều đư­a ra tín hiệu đảo chiều không có được với kỹ thuật của phư­ơng Tây (khi không có mức cao mới nào được tạo ra bởi sự vận động của giá thì chúng không phải là những tuần đảo chiều đư­ợc xem xét).
DARK-CLOUD COVER
Mẫu đảo chiều tiếp theo là dark-cloud cover (xem hình 4.24). Nó là một mẫu hình hai cây nến báo hiệu một sự đảo chiều ở đỉnh sau một xu hướng tăng giá, hoặc đôi khi ở đỉnh của một dải hẹp.
Cây nến đầu tiên của mẫu hình hai cây nến này là một thân nến trắng mạnh mẽ. Cây nến thứ hai có giá mở cao hơn giá cao của phiên trước đó (có nghĩa cao hơn đỉnh của bóng trên). Tuy nhiên, vào khoảng cuối phiên thứ hai, thị trư­ờng đóng phiên gần mức thấp của phiên và bên trong thân nến trắng của phiên trư­ớc.
Mức độ xâm nhập vào phần thân cây nến trắng càng lớn thì khả năng một đỉnh sẽ xuất hiện càng cao. Nhiều nhà kỹ thuật Nhật Bản yêu cầu sự xâm nhập lớn hơn 50% mức đóng phiên giảm vào phiên tăng trước đó. Nếu cây nến đen không kết thúc thấp hơn nửa thân nến trắng, tốt hơn là đợi thêm sự xác nhận của mẫu hình giảm giá dark-cloud cover.
Lý do căn bản đằng sau mẫu hình giảm giá này được giải thích dễ dàng. Thị trường trong một xu hướng tăng. Một cây nến trắng tăng giá mạnh mẽ, tiếp theo là một khoảng trống tăng giá ở đầu phiên kế tiếp. Đến đây, những người đầu cơ giá lên nắm hoàn toàn quyền điều khiển thị trường. Nhưng sau đó không thấy có sự tiếp tục tăng giá. Thực tế là thị trư­ờng kết thúc ở/gần mức giá thấp của phiên và bên trong phần thân nến trắng của phiên trước. Trong bối cảnh như vậy, những người mua sẽ suy nghĩ lại về vị trí của họ. Những người đang đợi để bán ngắn hạn bây giờ có một điểm chuẩn để đặt một lệnh dừng - tại mức giá cao mới của phiên thứ hai của mẫu hình dark-cloud cover.
Sau đây là một số yếu tố làm tăng thêm độ tin cậy của mẫu hình dark-cloud cover:
1. Mức độ xâm nhập của giá đóng thân cây nến đen vào thân cây nến trắng trước đó càng lớn, cơ hội cho một đỉnh càng cao. Thân nến đen của mẫu hình dark-cloud cover chỉ xâm nhập một phần thân nến trắng. Nếu thân nến đen bao trùm toàn bộ thân nến trắng của phiên trước thì một mẫu hình engulfing giảm giá xuất hiện. Vì vậy, một mẫu hình engulfing giảm giá có ý nghĩa đảo chiều ở đỉnh hơn. Nếu một thân nến trắng, dài kết thúc trên mức giá cao của mẫu hình dark-cloud cover, hoặc engulfing giảm giá thì nó có thể báo trước sự vận động khác.
2. Trong một xu hướng tăng giá kéo dài, nếu có một cây nến trắng mạnh mẽ - mở ở giá thấp (không có bóng dưới), đóng ở giá cao (không có bóng trên), và phiên sau là một thân nến đen dài, mở ở giá cao và đóng ở giá thấp, sau đó sẽ xuất hiện phiên giảm mạnh, không có bóng trên và bóng dưới.
3. Nếu thân nến thứ hai (thân nến đen) của mẫu hình dark-cloud cover có giá mở ở trên một mức kháng cự mạnh và sau đó rớt, nó chứng minh rằng những người đầu cơ giá lên không thể điều khiển được thị trường.
4. Nếu vào đầu phiên thứ hai có một khối lượng giao dịch rất lớn, tình trạng quá mua có thể đã xuất hiện. Ví dụ, khối lượng giao dịch rất lớn tại một mức giá mở cao mới có thể có nghĩa rằng nhiều ngư­ời mua mới đã quyết định nhảy lên tàu. Rồi sau đó thị trư­ờng bán tháo. Có lẽ sẽ không quá lâu trư­ớc khi đám đông những người mua mới hiểu ra rằng con tàu mà họ nhảy lên là tàu Titanic.
Đối với những người giao dịch thị trường tương lai, khối lượng giao dịch cực lớn cũng là một tín hiệu cảnh báo khác.
Hình 4.25 thể hiện sự khác nhau giữa mẫu hình dark-cloud cover và engulfing. Hai thân nến trong tháng sáu năm 1989 tạo thành một dark-cloud cover. Một thân nến trắng dài, tiếp theo là một thân nến đen, dài. Thân nến đen mở ở một mức cao mới, sau đó đóng ở gần mức thấp của nó và bên trong thân nến trắng trước đó. Thị tr­ường trái phiếu đã có dấu hiệu giảm nhiệt sau khi có sự đảo chiều ở đỉnh này xuất hiện. Tuy nhiên sự giảm sút mạnh chỉ đến vài tuần đó, khi mẫu hình engulfing được cụ thể hóa. Chúng ta có thể thấy thân nến đen của dark-cloud cover bao trùm một phần thân nến trắng trư­ớc đó. Thân nến đen của mẫu hình engulfing giảm giá bao bọc toàn bộ thân nến trắng trước nó.
Trong hình 4.26 có ba mẫu hình dark-cloud cover được nhận diện. Những tín hiệu giảm giá khác nhau được xác nhận qua mỗi mẫu hình này. Chúng ta hãy xem xét từng mẫu hình riêng lẻ.
1. Dark-cloud cover 1. Đây là một biến thể của mẫu hình dark-cloud cover lý tưởng. Trong dark-cloud cover này, thân nến đen của ngày thứ hai mở ở mức giá cao của ngày hôm trước, thay vì ở trên nó. Đó chỉ là một tín hiệu cảnh báo, nhưng cần được nhìn nhận là như là một yếu tố phủ định. Mẫu hình dark-cloud cover này cũng thể hiện một nỗ lực bất thành của những người đầu cơ giá lên trong việc vượt qua mức kháng cự ở mức giá cao giữa tháng hai.
2. Dark-cloud cover 2. Không kể mẫu hình này, đã có lý do khác cho việc cần phải thận trọng ở mức 21$. Một tiên đề kỹ thuật là: một mức hỗ trợ sau khi bị phá bỏ có thể chuyển đổi thành mức kháng cự mới. Điều đó đã xảy ra tại 21$. Ghi nhớ rằng mức hỗ trợ cũ 21$ đã bị xuyên thủng một lần vào ngày 9 tháng ba, được chuyển thành mức kháng cự. Những nỗ lực bị phá sản thể hiện qua mẫu hình này trong hai ngày đầu tiên của tháng tư­ minh họa cho mức kháng cự này. (Chư­ơng 11 sẽ đề cập đến khái niệm có thể hoán đổi vai trò của mức hỗ trợ và kháng cự).
3. Dark-cloud cover 3. Mẫu hình này cũng thể hiện đã có một sự thất bại tại một ngưỡng kháng cự được thiết lập ở những mức giá cao cuối tháng tư.
Đó là những ví dụ thể hiện mẫu hình dark-cloud cover trùng với những mức kháng cự. Khái niệm này thể hiện là những khu vực có sự hội tụ của nhiều chỉ báo kỹ thuật thì càng quan trọng. Đó là tiêu điểm chính của phần 2 của cuốn sách - Sự kết hợp của kỹ thuật hình nến với những công cụ kỹ thuật khác.
Hình 4.27 chỉ ra rằng trong thời gian đầu tháng ba, dark-cloud cover 1 là sự tạm dừng của một xu hướng tăng. Sự điều chỉnh xảy ra suốt tuần sau đó. Hai dark-cloud cover nữa được hình thành trong tháng tư. Dark-cloud cover 2 ngụ ý rằng sự tăng giá mạnh trong hai ngày có lẽ đã kết thúc. Dark-cloud cover 3, giữa tháng tư, thì đặc biệt giảm giá mạnh.
Trong hình 4.28, chúng ta nhìn thấy giá có xu hư­ớng tăng bắt đầu từ ngày 10/2 đến khi đột ngột dừng vào giữa tháng hai với sự xuất hiện của dark-cloud cover.
Similar topics
» Các Wed Up Load Hình Ảnh
» Tài Liệu Anh Văn
» Phần Mềm Quay Lại Màn Hình Với Flashback
» FramePhotoEditor - phần mềm ghép, chỉnh sửa hình ảnh
» SmartDraw 2010 - Vẽ biểu đồ, sơ đồ, mô hình... đủ loại
» Tài Liệu Anh Văn
» Phần Mềm Quay Lại Màn Hình Với Flashback
» FramePhotoEditor - phần mềm ghép, chỉnh sửa hình ảnh
» SmartDraw 2010 - Vẽ biểu đồ, sơ đồ, mô hình... đủ loại
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Wed Mar 05, 2014 6:42 pm by Admin
» MÁY XAY ĐA NĂNG MAGIC BULLET
Wed Aug 07, 2013 5:13 pm by Admin
» Cách Xóa Table Trong Word 2007
Tue Jul 16, 2013 10:11 am by bacphongtieu@gmail.com
» Bán đồng hồ cao cấp,sieu thi trang tien 2013 hot!!!!!!!
Fri Nov 16, 2012 3:57 pm by chogoviet
» Bán buôn bán lẻ tinh dầu quế tai Hà Nội !!!!!!!!!!
Fri Nov 16, 2012 3:56 pm by chogoviet
» sieu thi trang tien,đồ hiệu cao cấp 2013 hot!!!!!!!!!!!!!!!
Tue Nov 06, 2012 9:23 am by chogoviet
» Máy Rửa Mặt Và Massage MYM 124.000Đ Chỉ Có Tại Dealsaigon
Fri Sep 07, 2012 11:01 pm by Admin
» Máy Massage Mắt
Fri Aug 17, 2012 12:28 am by Admin
» Giới thiệu dealsaigon : muachung, nhommua, hotdeal, cungmua, dealsoc, giảm giá, khuyến mãi, giá sốc
Sun May 20, 2012 9:05 am by Admin
» Phần mềm tìm E-mail hàng loạt, phần mềm quét mail, phần mềm lấy mail trên các website phục vụ Email Marketing .
Sun May 13, 2012 2:29 pm by Admin